Cần kiểm soát hóa chất độc hại

Ở nước ta, các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP) và thủy ngân đang hiện diện ở nhiều nơi, trong khi hệ thống quản lý, xử lý và thay thế vẫn còn nhiều khó khăn.

Nhà kho phân loại, lưu giữ chất thải nguy hại phát sinh trong quá trình sản xuất tại Công ty Cổ phần Khai khoáng Minh Đức, tỉnh Yên Bái. (Ảnh: Thanh Ngà)
Nhà kho phân loại, lưu giữ chất thải nguy hại phát sinh trong quá trình sản xuất tại Công ty Cổ phần Khai khoáng Minh Đức, tỉnh Yên Bái. (Ảnh: Thanh Ngà)

Chỉ một chiếc bóng đèn huỳnh quang hay một tấm vật liệu cách nhiệt EPS/XPS có thể chứa các hóa chất thuộc danh sách loại bỏ toàn cầu. Ở Việt Nam, khoảng 3.000 tấn vật liệu EPS/XPS được sản xuất mỗi tháng, trong đó thường chứa HBCDD, một chất POP cực kỳ độc hại.

Còn trong lĩnh vực y tế, hàng chục nghìn thiết bị như nhiệt kế, máy đo huyết áp… vẫn sử dụng thủy ngân, một kim loại nặng có thể gây tổn thương thần kinh, rối loạn nội tiết và tích lũy sinh học.

Với tỷ lệ hư hỏng gần 20%, ước tính có tới 500kg thủy ngân bị phát tán mỗi năm chỉ riêng từ các cơ sở y tế. Điều này càng nguy hiểm hơn khi nước ta vẫn chưa có hệ thống thu gom và xử lý đồng bộ các sản phẩm chứa thủy ngân sau sử dụng.

Vụ cháy kho của Công ty cổ phần Bóng đèn Phích nước Rạng Đông (năm 2019) khiến hàng chục kg thủy ngân lan vào môi trường đô thị; hàng nghìn nông dân từng tiếp xúc thuốc trừ sâu chứa POP suốt nhiều thập kỷ và nhiều địa điểm từng bị ô nhiễm bởi chiến tranh.

Những cái tên như dioxin, PCB, PFOS… không còn là khái niệm chuyên môn, mà đã thành nỗi ám ảnh dai dẳng với cộng đồng.

Việt Nam đã tham gia và phê chuẩn Công ước Stockholm (về POP) từ năm 2002 và Công ước Minamata (về thủy ngân) từ năm 2013. Các nội dung về quản lý hóa chất cũng đã được đưa vào Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cùng các nghị định hướng dẫn.

Bên cạnh đó, mới đây, Công ước Stockholm vừa thông qua việc loại bỏ thêm 3 nhóm hóa chất độc hại toàn cầu (chlorpyrifos, PFCAs chuỗi dài, MCCP). Tuy nhiên, thực tế, các hóa chất này vẫn tiếp tục được sử dụng, đặc biệt ở các lĩnh vực sản xuất công nghiệp như nhựa, sơn, xi mạ, vật liệu cách nhiệt, và thiết bị y tế.

Nhưng điều khiến giới chuyên gia lo ngại là khoảng cách giữa luật và thực tiễn vẫn còn rất lớn. Các hóa chất như PBDEs, SCCP, PFOS, dù không sản xuất nội địa, vẫn tiếp tục được nhập khẩu và sử dụng rộng rãi. Các quy định như dán nhãn sinh thái, mua sắm xanh, kiểm soát hóa chất nguy hại… còn quá yếu để thay đổi hành vi của thị trường.

Đặc biệt, tại cấp cơ sở và các doanh nghiệp nhỏ, năng lực kỹ thuật, tài chính và nhận thức còn hạn chế cho nên việc kiểm soát hóa chất gần như bị buông lỏng. Người tiêu dùng cũng không thể phân biệt đâu là sản phẩm an toàn, đâu là thứ tiềm ẩn POP, thủy ngân.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đã khởi động dự án về “giảm thiểu phát thải POP và thủy ngân thông qua quản lý vòng đời sản phẩm và nhãn sinh thái”.

Theo đại diện Cục Môi trường, dự án không chỉ đặt mục tiêu cụ thể như giảm 648kg thủy ngân thông qua loại bỏ và thay thế 10.000 thiết bị y tế chứa thủy ngân, 20.000 bóng đèn huỳnh quang, cắt giảm 35 tấn POP từ sản phẩm công nghiệp mà còn hướng đến thiết lập cơ chế tài chính xanh, áp dụng nhãn sinh thái và thúc đẩy tiêu dùng bền vững, để thị trường dịch chuyển theo hướng xanh hóa.

Một xu hướng quan trọng của quản trị hóa chất hiện đại là “quản lý vòng đời sản phẩm” tức kiểm soát từ khâu thiết kế, sản xuất, lưu thông, tiêu dùng cho đến thu hồi và tiêu hủy cuối cùng. Đây là cách tiếp cận mà nhiều quốc gia phát triển đã áp dụng, đặc biệt đối với POP, thủy ngân và các chất khó phân hủy trong tự nhiên.

Ông Patrick Haverman, Phó Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam cho biết, hợp tác liên ngành là yếu tố then chốt bởi POP, thủy ngân và các hóa chất nói chung tồn tại trong nhiều lĩnh vực và thuộc phạm vi quản lý của nhiều cơ quan khác nhau, do đó cần có sự tham gia tích cực từ các đơn vị của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Công thương, Bộ Y tế.

Theo ông Lê Công Thành, Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường, thực hiện dự án là hành động thể hiện quyết tâm, hành động của Chính phủ Việt Nam về bảo vệ môi trường trong quản lý các chất ô nhiễm khó phân hủy và thực hiện các cam kết quốc tế nhằm giảm thiểu rủi ro cho môi trường và sức khỏe con người.

Có thể bạn quan tâm