50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

Huyền thoại Vũng Rô trên sóng dữ

Vũng Rô - bến bãi huyền thoại trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển, nơi ghi dấu những chuyến tàu không số kiên cường vượt qua bão tố, tiếp tế cho chiến trường miền nam. Những con người quả cảm như thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh đã góp phần làm nên kỳ tích. Hôm nay, sóng Vũng Rô vẫn vang vọng khúc tráng ca của một thời oanh liệt.
Đài tưởng niệm tàu không số Vũng Rô tại Khu Di tích lịch sử Vũng Rô. Ảnh: BÁO TIỀN PHONG
Đài tưởng niệm tàu không số Vũng Rô tại Khu Di tích lịch sử Vũng Rô. Ảnh: BÁO TIỀN PHONG

Những chuyến tàu bí mật

Chiều Vũng Rô lộng gió. Những con sóng bạc đầu xô vào ghềnh đá như nhắc nhớ về một thời máu lửa. Đi bên cạnh tôi, ông Hồ Đắc Thạnh, một trong những thuyền trưởng dày dạn nhất của Đoàn tàu không số.

Ông Thạnh sinh năm 1934 tại Tuy Hòa, lớn lên giữa tiếng sóng biển miền trung. Từ nhỏ, ông đã tham gia đoàn biểu tình chống Pháp. 16 tuổi, ông cùng bạn bè lấy đá chặn đường tàu hỏa chở lính Pháp, rồi chạy thoát vào rừng, sau đó gia nhập bộ binh, tập kết ra bắc. Nhờ thành thạo nghề biển, năm 1958, ông được chuyển sang học tại Trường 45 thuộc Cục Phòng thủ bờ biển, tiền thân của Bộ Tư lệnh Hải quân ngày nay. Đầu năm 1962, khi chỉ còn chưa đầy 4 tháng để hoàn thành khóa đào tạo sĩ quan hải quân đầu tiên, ông được chọn tham gia Đoàn 759, tiền thân của Đoàn 125 Hải quân. Năm 1964, ông làm thuyền trưởng tàu 41, một trong những con tàu không số quan trọng trên tuyến vận tải chiến lược Hồ Chí Minh trên biển. Chỉ trong hơn 2 tháng, tàu 41 đã thực hiện 3 chuyến cập bến Vũng Rô an toàn, vận chuyển gần 200 tấn vũ khí và 8 cán bộ chi viện cho chiến trường miền nam.

Người thuyền trưởng già không giấu được tự hào: “Chuyến tàu đầu tiên cập bến Vũng Rô vào tối 28/11/1964. Tôi nhớ mãi giây phút gặp ông Trần Suyền, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên khi ấy. Ông ấy rơm rớm nước mắt khi biết tàu tôi chở tới 63 tấn vũ khí, vì lực lượng bốc dỡ quá ít. Chúng tôi bàn bạc suốt đêm, quyết định ém tàu lại, ngụy trang kỹ lưỡng để tránh máy bay trinh sát. Suốt một ngày nằm im giữa ghềnh đá, tôi nhìn mặt trời nhích từng chút, lòng sốt ruột khôn nguôi. Cũng may, 1 ngày yên tĩnh trôi qua, tối 7 giờ để cho dân công bốc hàng lên. Cái khó nữa là tàu vận tải khi bốc hàng xong nhẹ thì nổi nhô lên. Cuối cùng mình chọn lấy cát của Vũng Rô đổ lên, người thì đưa cát lên tàu, người đưa vũ khí xuống. Đến 3 giờ sáng, hàng bốc lên đưa tới đâu thì đưa, không đưa được thì đào cát chôn, đến khi tàu ra rồi lực lượng vũ trang dân công dỡ dần”.

Chuyến thứ hai, tàu trở lại Vũng Rô ngày 25/12/1964. Ngoài 63 tấn vũ khí, tàu 41 còn đưa vào thêm 4 cán bộ chi viện và 3 tấn gạo cho đơn vị bến.

Vọng từ lịch sử

Chuyến đi đáng nhớ nhất chính là đêm giao thừa năm 1964-1965. Tàu 41 chở đầy hàng và cả quà Tết từ bắc vào nam: bánh chưng, bánh tét, kẹo, chè, thuốc lá… và một cành đào Nhật Tân. Ông Thạnh cười: “Chúng tôi bàn nhau, đã đi qua bao chuyến nhưng chưa bao giờ đón giao thừa trên tàu, lần này phải có chút hương vị Tết”.

Ngày 27 Tết, tàu rời cảng Hải Phòng. Ba ngày sau, lúc 23 giờ 50 phút đêm 30 Tết, tín hiệu từ bờ lóe lên báo hiệu tàu 41 cập bến an toàn. Bên cạnh ông Thạnh hôm nay có bà Nguyễn Thị Tản, nữ dân quân của bến Vũng Rô ngày ấy. Bà bồi hồi nhớ lại: “Khi bắt đầu tham gia du kích, tôi mới 16 tuổi. Phải sau nhiều tháng hoạt động thử thách, tôi mới được tổ chức tin tưởng giao cho nhiệm vụ vận chuyển vũ khí tại bến Vũng Rô. Nhớ có lần thấy mình nhỏ bé mà vác cả thùng đạn nặng hơn người chạy lên bến, mấy thủy thủ hỏi: “Các em động lực gì mà các em theo cách mạng?”. Địch đốt phá nhà cửa, ngày nào làng cũng có người chết. Nhà tôi có 5 người nó giết hết, sao mà không căm thù được. Nên tự nhủ quyết tâm theo Đảng. Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, nhưng niềm tin thì to lớn”.

Lúc đó, Phú Yên chìm trong lửa đạn, ngày nào cũng có tiếng bom rơi, súng nổ. Dân quân ngày thì nằm ém mình trong các hốc đá, ngụy trang kín mít để tránh bị địch phát hiện, đêm đến mới rời khỏi chỗ ẩn nấp, dõi mắt ra biển mong chờ ánh hiệu từ những con tàu không số. Mỗi lần thấy ánh đèn tín hiệu chớp lên trong đêm tối, tim như nghẹn lại, vừa mừng vừa lo, bà Tản xúc động. Mừng vì tàu đến an toàn, lo vì việc bốc dỡ phải hoàn thành thật nhanh trước khi trời sáng.

Nhớ khoảnh khắc 23 giờ 50 phút đêm 30 Tết, khi pháo sáng lóe lên trên bầu trời Vũng Rô, bà Tản kể: “Tôi và đồng đội nín thở. Nếu địch phát hiện sẽ nguy. Nhưng rồi, một tiếng reo vui vang lên: Đó là pháo giao thừa! Lúc ấy, những người lính biển và du kích ôm chầm lấy nhau. Trên tay họ, cành đào Nhật Tân và một nhành mai rừng từ đất Phú Yên hòa quyện”.

Hôm nay, Vũng Rô đã yên bình. Ngày 18/6/1997, nơi đây được công nhận Di tích lịch sử cấp quốc gia. Con tàu HQ671 (tàu 41 năm xưa) trở thành bảo vật quốc gia, được lưu giữ tại Bảo tàng Hải quân. Biển Vũng Rô vẫn vỗ về bờ cát, nhắc nhớ một thời không thể quên. Ông Thạnh trầm ngâm: “Chúng tôi đã mất nhiều đồng đội, nhiều con tàu, nhưng chưa bao giờ lùi bước. Mỗi chuyến đi là một cuộc chiến sinh tử, nhưng chúng tôi luôn tin rằng, chỉ cần giữ vững niềm tin và quyết tâm, chúng ta sẽ chiến thắng. Ngày ấy, chúng tôi giữ tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển. Hôm nay, thế hệ trẻ phải giữ biển đảo quê hương”.

Bà Tản nhìn ra xa, nơi sóng biển rì rào như tiếng vọng từ lịch sử: “Hãy nhớ rằng, từng tấc đất, từng con sóng này đã thấm máu bao người. Đừng bao giờ quên điều đó”.

Có thể bạn quan tâm