Mở đường cho một giai đoạn phát triển mới

Thành phố Hồ Chí Minh đang bước vào một bước ngoặt lịch sử với đề án mở rộng địa giới hành chính, hướng tới hợp nhất không gian với Bình Dương và Bà Rịa-Vũng Tàu. Không chỉ mở rộng đô thị, đây còn là khởi đầu cho một mô hình “siêu đô thị vùng”.

Khu nam Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh THẾ ANH)
Khu nam Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh THẾ ANH)

Tuy nhiên, không gian mới sẽ không thể phát huy hiệu quả nếu thiếu một cơ chế đặc thù, không phải cho từng địa phương, mà cho toàn vùng đô thị mở rộng.

Trong lịch sử phát triển, Thành phố Hồ Chí Minh luôn đi trước cả nước trong các đột phá thể chế, từ khoán 10 đến đổi mới kinh tế tư nhân, xây dựng đô thị sáng tạo thành phố Thủ Đức.

Song chính vì đi trước mà thành phố thường bị ràng buộc bởi khung thể chế cũ, không còn đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng vượt ngưỡng. Hệ thống công nghiệp - logistics - đổi mới sáng tạo ngày càng lan rộng ra các tỉnh lân cận, trong khi hành lang pháp lý vẫn bị chia cắt, khiến chi phí phát triển vùng ngày càng cao, hiệu quả đầu tư thấp và doanh nghiệp bị mắc kẹt giữa các tầng lớp quản lý.

Trong bối cảnh đó, cần kiến tạo một khung thể chế vùng hoàn chỉnh, được dẫn dắt bởi các nguyên lý quản trị hiện đại. Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định thể chế phải là “khâu đột phá của đột phá”, đi trước, dẫn dắt và mở đường cho phát triển.

Đây chính là kim chỉ nam để xây dựng một cơ chế đặc thù không chỉ cho Thành phố Hồ Chí Minh, mà cho toàn khu vực siêu đô thị đang hình thành.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy: Tokyo, Seoul, Thượng Hải hay Paris đều có thiết chế vùng mạnh - một trung tâm điều phối có quyền lực quy hoạch, tài chính và hành chính vượt trội.

Nếu mỗi địa phương một quy hoạch, mỗi nơi một chính sách, siêu đô thị sẽ chỉ là phép cộng cơ học, không tạo ra giá trị cộng hưởng.

Với Thành phố Hồ Chí Minh mở rộng cần được trao quyền thí điểm một đạo luật riêng, có thể khác biệt với luật hiện hành nhưng vẫn bảo đảm hợp hiến. Luật này nên trao cho thành phố quyền điều phối quy hoạch, ngân sách, hạ tầng liên vùng, thiết lập quỹ phát triển và hình thành Hội đồng điều phối vùng - một “nội các thu nhỏ” có pháp lý rõ ràng, ra quyết định nhanh và nhất quán trên toàn không gian phát triển.

Đồng thời, phải thiết lập cơ chế ngân sách vùng, như mô hình quỹ phát triển vùng ở Bay Area (Mỹ) hay Ruhr (Đức) để đầu tư vào giao thông công cộng, hạ tầng chiến lược và các trung tâm công nghệ cao.

Nếu tiếp tục để mỗi tỉnh đầu tư manh mún, thiếu liên kết, chi phí sẽ càng bị đội lên, hiệu quả càng suy giảm.

Cơ chế đặc thù vùng cũng là chìa khóa để khơi thông nguồn lực kinh tế tư nhân, một trụ cột được xác định trong Nghị quyết số 68-NQ/TW. Khi được hoạt động trong một hành lang pháp lý liên thông, ổn định và nhất quán trên toàn vùng, doanh nghiệp sẽ mạnh dạn mở rộng quy mô, tích tụ vốn, đổi mới công nghệ và tối ưu hóa chi phí chuỗi cung ứng.

Xa hơn, thể chế vùng cho Thành phố Hồ Chí Minh mở rộng còn là phép thử cho mô hình phân quyền, phân cấp mới trong cải cách thể chế.

Thành phố mở rộng cần được ủy quyền phân bổ vốn trong khuôn khổ ngân sách trung ương mà không phải qua nhiều tầng phê duyệt. Chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, từ phê duyệt từng phần sang giám sát mục tiêu và hiệu quả, đó là cách để thể chế chuyển động cùng thực tiễn phát triển.

Một cơ chế như vậy không chỉ là yêu cầu khách quan, mà còn là cam kết chính trị của Đảng, Nhà nước với nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh - nơi luôn đi đầu trong đổi mới và kiến tạo.

Trong kỷ nguyên mà năng lực thể chế quyết định vị thế quốc gia, thì trao cơ hội thể chế cho Thành phố Hồ Chí Minh mở rộng cũng chính là trao một cơ hội phát triển mới cho cả đất nước.

Có thể bạn quan tâm