Đi qua 2 cuộc chiến tranh khốc liệt, Anh hùng LLVTND - Thiếu tướng Nguyễn Tụ tâm sự, điều ông tự hào nhất là có mặt tại những chiến dịch ác liệt nhất, được sát cánh bên đồng đội, giúp họ vượt qua những đau thương của chiến tranh tại trận địa. Không chỉ điều trị, việc phòng bệnh, nâng cao sức khỏe cho hàng vạn chiến sĩ bấy giờ là một nhiệm vụ cần kíp và trọng đại. Kế hoạch bảo đảm quân y cho các chiến dịch lớn, nhỏ được xây dựng hoàn hảo. Nhiều loại “thần dược” ra đời ở thời điểm này.

“Giữa rừng thiêng, nước độc của núi rừng Tây Nguyên, những chiến sĩ quân y sáng tạo không ngừng. Chúng tôi chưng cất được cồn để sát trùng khi tiêm và điều trị, lấy lá chuối non hỗ trợ trị bỏng bom Nepal, làm được B3min bồi bổ cho bộ đội, lấy lá rừng thay cho kháng sinh điều trị vết thương hở…”, Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tụ (nguyên Bí thư Đảng ủy, Phó giám đốc Chính trị Học viện Quân y) tự hào nói.

B3min và công cuộc “bồi bổ” cho bộ đội

10 năm tròn ở mặt trận Tây Nguyên, trải qua 10 chiến dịch, những gì ác liệt nhất ở mặt trận này, Thiếu tướng Nguyễn Tụ đều thấm cả.

Ông hồi tưởng: Tháng 12/1965, khi đang là Đại úy, ông vào Tây Nguyên với nhiệm vụ là trợ lý kế hoạch cho Cục phó Cục Quân y Võ Văn Vinh để chuẩn bị sẵn sàng xây dựng bệnh viện 211 phục vụ chiến trường. Nhiều chuyên viên giỏi của Bệnh viện Quân y 103 và Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 cùng ông lên đường thời điểm này như bác sĩ Lê Cao Đài chuyên mổ lồng ngực; Nguyễn Văn Âu chuyên gia truyền nhiễm; Đinh Văn Lạc chuyên mổ sọ não; bác sĩ Vũ Bích – nội thần kinh; Đỗ Xuân Chương chuyên về tiêu hóa... Họ hành quân mang theo nhiều máy móc và các vật tư y tế, thế nhưng dọc đường Trường Sơn ác liệt, những trang thiết bị, vật tư này đều bị bom đánh cho hỏng phần lớn.

Các chiến sĩ quân y của ta luôn luôn bám sát trận địa, cứu chữa kịp thời những trường hợp bị thương.

Các chiến sĩ quân y của ta luôn luôn bám sát trận địa, cứu chữa kịp thời những trường hợp bị thương.

Tại Tây Nguyên, cơ sở điều trị rất hoang sơ. Thiếu máy móc, thiếu vật tư y tế, khó khăn dồn lên vai đội ngũ quân y. Nhiều chuyên khoa không thể phát huy trong tình cảnh thiếu thốn. Làm thế nào để bộ đội có sức chiến đấu là điều mà lực lượng quân y rất tâm tư.

Ông tâm sự, bấy giờ, tỷ lệ thương binh không cao hơn tỷ lệ bệnh binh. “Cứ sau mỗi chiến dịch, bệnh binh ồ ạt vào các bệnh viện gấp 4 lần thương binh. Sốt rét, suy dinh dưỡng như một vòng luẩn quẩn với các chiến sĩ. Sốt rét làm mất sức chiến đấu của bộ đội ghê gớm”, ông kể.

Không ai vào chiến trường Tây Nguyên này không bị sốt rét. Người nhẹ, chủ yếu đã có miễn dịch từ trước. Với Thiếu tướng Nguyễn Tụ cũng vậy, ông từng mắc sốt rét nguy kịch ở Điện Biên Phủ, nên ông thấu hiểu được những gì mà đồng đội mình đang phải trải qua. Những anh em tân binh, cũng phải trải qua mỗi năm một trận sốt rét mới có miễn dịch cơ thể.

Sốt rét là bệnh gây đau đầu với chỉ huy các đơn vị. 100% ca sốt rét, sẽ có khoảng 20% là sốt rét ác tính và khoảng 5-7% trong số đó sẽ tử vong. “Có lần, chúng tôi xuống một tiểu đoàn quân y, trong số 200 thương bệnh binh nằm tại đây, đã có 20 anh tử vong trên võng vì sốt rét”, ông chua xót nói.

Để bảo đảm đủ quân số cho một đại đội đi chiến đấu, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo (Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên) ra lệnh, quân y chiến trường ngoài nhiệm vụ cứu chữa thương binh thì việc quan trọng số một là phải giải quyết vấn đề sốt rét. Mà muốn giải quyết sốt rét thì phải tăng cường được sức khỏe cho bộ đội ta.

“Trong chiến trường Tây Nguyên, lực lượng quân y có mấy “ông trùm” về truyền nhiễm như Nguyễn Văn Âu, Võ An Dậu đã có những sáng kiến tuyệt vời trong giai đoạn này, trong đó đã tự sản xuất viên đạm bằng giun đất”, Thiếu tướng Nguyễn Tụ hào hứng kể.

Mùa mưa ở Tây Nguyên, giun đùn lên hàng tạ, lổm nhổm trên mặt đất. Nghĩ đến bài thuốc đông y địa long được làm từ giun đất, Thiếu tướng Nguyễn Tụ trao đổi với mấy đồng chí dược sĩ: “Các chú nghiên cứu xem có cách nào khoa học hóa để cô đặc giun đất này thành thuốc chữa sốt rét cho bộ đội, tăng miễn dịch cho bộ đội”. Anh em nhanh chóng bắt tay làm ngay. Sau khi thu được hàng tạ giun, quân y hối hả nấu cao mềm giun rồi trộn với bột sắn, se thành những viên đạm nhỏ. Để bảo đảm cơ sở khoa học bồi bổ cho các chiến sĩ, ông Tụ gửi viên thuốc ra bắc để nhờ phân tích viên đạm.

“Kết quả ngoài bắc gửi vào, tất cả những axitamin cơ thể không tự tổng hợp được đều có trong viên thuốc này. Anh em mừng khôn xiết, ngay sau đó một triệu viên đạm được lấy tên B3min ra đời”, Thiếu tướng Nguyễn Tụ nói đầy tự hào.

Để tăng cường sức chiến đấu cho bộ đội, các chiến sĩ quân y vào rừng, thu thập xương các con vật đã rữa hết thịt, mang về nấu cao. Một bộ xương voi khi đó có thể nấu được 3-4 tạ cao, phục vụ cho toàn quân. Vấn đề bổ sung đạm cho bộ đội vậy là đã thành công.

Để tăng cường dinh dưỡng, toàn chiến trường phải tổ chức sản xuất. Mỗi đơn vị đều có một hậu cứ, sử dụng nương cũ của dân để trồng sắn, lúa, lạc, vừng, chăn nuôi… Được chăm sóc dinh dưỡng tốt, tỷ lệ sốt rét giảm hẳn, đặc biệt là giảm tỷ lệ sốt rét ác tính gây tử vong xuống còn một nửa.

“Giữa rừng thiêng, nước độc của núi rừng Tây Nguyên, những chiến sĩ quân y sáng tạo không ngừng. Chúng tôi chưng cất được cồn trị vết thương, lấy lá chuối non hỗ trợ trị bỏng bom Nepal, làm được B3min bồi bổ cho bộ đội, lấy lá rừng thay cho kháng sinh điều trị vết thương hở…”
Thiếu tướng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tụ (nguyên Bí thư Đảng ủy, Phó giám đốc Chính trị Học viện Quân y)

Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tụ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (ngồi bên phải) tham dự chương trình họp báo về đợt thông tin đặc biệt về chiến thắng Điện Biên Phủ trên Báo Nhân Dân. 

Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tụ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (ngồi bên phải) tham dự chương trình họp báo về đợt thông tin đặc biệt về chiến thắng Điện Biên Phủ trên Báo Nhân Dân. 

Cán bộ quân y của ta đang cứu chữa bọn thương binh địch trong các hầm ngầm.

Cán bộ quân y của ta đang cứu chữa bọn thương binh địch trong các hầm ngầm.

Vững vàng trên tuyến đầu điều trị

Chiến trường thiếu thốn đủ bề, những tét cồn được chở từ bắc vào Tây Nguyên, tới nơi cũng bay hơi hết. Không có cồn y tế, lực lượng quân y chỉ có cách sử dụng nước sôi để nguội sát trùng trước khi tiêm; luộc gạc, bông băng thu hồi sử dụng lại nên bộ đội bị áp xe nhiều và vết thương nhiễm trùng nặng nề...

Năm 1968, ông Nguyễn Tụ làm Phó Chủ nhiệm quân y chiến trường Tây Nguyên. Để bảo đảm công tác quân y cho chiến trường khắc nghiệt B3, Thiếu tướng Nguyễn Tụ bàn với anh em, không thể phụ thuộc vào lượng cồn chi viện từ bắc. Nhưng để làm gì có được cồn cho công tác điều trị, anh em quân y đã học cách làm men rượu của đồng bào địa phương. Dần dà, chiến sĩ học được làm men vi sinh vật, trồng sắn để làm rượu, chưng cất được rượu lên tới 70 độ. Với sáng kiến dùng vôi bột đóng thùng, chiến sĩ quân y đã chưng cất được cồn lên tới 90 độ.

Để kịp thời điều trị cho thương binh bị sốc, nguy kịch, dịch truyền glucose rất quan trọng nhưng ở chiến trường này, việc có dịch truyền glucose là một điều xa xỉ. Anh em quân y lại có sáng kiến chưng cất đường đỏ của nước bạn Campuchia, sau đó thủy phân thành glucose. “Đây cũng là một sáng kiến tuyệt vời”, Thiếu tướng Nguyễn Tụ khoe.  

Ngay tại chiến trường này, các chiến sĩ quân y cũng đã sáng tạo sản xuất được các ống thủy tinh. Họ thu hồi những lọ chai đã đựng thuốc, ống thuốc tiêm… nấu lại thành thủy tinh, nhờ quân lực tìm những thợ lành nghề trong lĩnh vực này để sản xuất những ống thủy tinh mới phục vụ tiêm truyền.

Được coi là vũ khí ghê rợn nhất lịch sử nhân loại, bom Napan đã khiến nhiều chiến sĩ của ta, đặc biệt trong chiến dịch Đắc Siêng bị bỏng khủng khiếp. Bỏng toàn thân, lột da, nhiễm trùng, đau đớn đến tận xương tủy. Nhìn anh em đau đớn mỗi lần thay băng mà không có thuốc gây mê, các chiến sĩ quân y lòng đau như cắt. Đồng chí Nguyễn Đình Hiếu khi đó đã có sáng kiến lấy nõn lá chuối non hấp tiệt trùng, đục những lỗ nhỏ, đắp vào vết thương sau đó mới đắp gạc lên. Nhờ đó, những thương binh bị bỏng bớt đi phần nào đau đớn mỗi lần phải thay băng gạc. “Nghĩ vì thương binh, chúng tôi có nhiều cách để làm thế nào giúp chiến sĩ của ta vơi đi nỗi đau”, Thiếu tướng Nguyễn Tụ trầm tư.

Nhiều kinh nghiệm của đồng bào cũng được anh em tận dụng triệt để. Biết được cây lân-tơ-uyn (một loại cây tầm gửi) có thể chữa được vết thương trầy xước, chiến sĩ quân y đã phân tích và thấy đây là loại cây có kháng sinh trị thương tốt. Họ mang về nấu thành cao lỏng, thay cho dung dịch rửa vết thương mỗi khi thay băng.

Thiếu tướng Nguyễn Tụ.

Thiếu tướng Nguyễn Tụ.

Là người có kinh nghiệm điều trị thương bệnh binh ở trận địa Điện Biên Phủ khốc liệt, Thiếu tướng Nguyễn Tụ cũng đã thể hiện khả năng lãnh đạo quân y tài tình ở mặt trận Tây Nguyên.

Ông kể , trong chiến dịch Tây nguyên sau giải phóng Buôn Ma Thuột, địch rút khỏi Tây nguyên, bộ đội phát triển đánh xuống các tỉnh miền trung rất nhanh. Quân y phải tổ chức cứu chữa thương binh trong hành tiến theo hình thức sâu đo... Cách này, lực lượng chia thành nhiều đơn vị nhỏ, để mỗi nơi một vài đồng chí chăm sóc thương binh và lần lượt vận chuyển thương binh về tuyến sau. Nhờ đó, công tác vận chuyển, cứu chữa hơn 2.400 thương binh được trơn tru. Việc vận chuyển thương binh bằng xe cơ giới đã tạo điều kiện giải phóng khẩn thương thương binh cho các phân đội và cơ sở quân y, nhất là trong chiến đấu truy kích, phát triển.

Trong chiến dịch Tây Nguyên đã sử dụng 2 bệnh viện dã chiến Z100 (Viện 1 cũ), Z200 (tách từ Bệnh viện 211), 3 đội điều trị (3, 17, 25), và được Bộ tăng cường một đội điều trị (48). Tỷ lệ thương binh được xử trí ở tuyến trung đoàn, sư đoàn là 89%, tuyến đội điều trị là 3,7%; tuyến bệnh viện là 7,3%. Sau này, nhờ được bảo đảm lương thực, thực đoàn khá hơn, công tác vệ sinh phòng bệnh được đẩy mạnh, phấn chấn tinh thần nên quân số khỏe khối bộ binh đạt 98,67%, khối binh chủng đạt 96,14%; mỗi đại đội trung bình bảo đảm được trên 70 tay súng, tỷ lệ bệnh binh so với tổng số thương binh, bệnh binh chỉ bằng 34,4%.

Tháng 3/1975, quân đoàn 3 được thành lập, Thiếu tướng Nguyễn Tụ cùng đồng đội nhận lệnh hành quân vào Nam Bộ tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Quân đoàn 3 chủ yếu tập kết ở khu vực Dầu Tiếng, chờ lệnh để vào Sài Gòn theo hướng Tây Bắc, đánh cứ điểm Đồng Dù, xuống Củ Chi, Hóc Môn rồi tiến đánh chiếm Sân bay Tân Sơn Nhất...

Đọc báo cho thương binh ở Điện Biên Phủ.

Đọc báo cho thương binh ở Điện Biên Phủ.

“Kết quả ngoài bắc gửi vào, tất cả những axitamin cơ thể không tự tổng hợp được đều có trong viên thuốc này. Anh em mừng khôn xiết, ngay sau đó một triệu viên đạm được lấy tên B3min ra đời”

Thiếu tướng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tụ (nguyên Bí thư Đảng ủy, Phó giám đốc Chính trị Học viện Quân y)

Chủ nhiệm Quân y mặt trận Tây Nguyên chia sẻ, đến đầu năm 1975, sau chiến dịch Phước Long, Quân y Miền (là quân y chiến dịch Hồ Chí Minh) có 17 bệnh viện, 16 đội điều trị, 4 đội phẫu thuật. Quân y các đoàn chủ lực (trừ quân đoàn 1) vừa trải qua phục vụ những chiến dịch lớn như Tây Nguyên, Huế-Đà Nẵng, Xuân Lộc-Long Khánh... có kinh nghiệm bảo đảm cho tiến công quy mô lớn, cơ động nhanh, đánh chiếm thị trấn, thị xã, thành phố; mặt khác đã tận thu chiến lợi phẩm trang bị cho bộ đội và quân y đơn vị. Lần đầu tiên quân đoàn 3 mỗi cán bộ chiến sĩ được phát 3 cuộn băng cá nhân, các cơ sở điều trị không phải sử dụng bông băng gạc thu hồi nữa.

Thiếu tướng Nguyễn Tụ.

Thiếu tướng Nguyễn Tụ.

Việc sử dụng và bố trí lực lượng quân y dựa vào hướng chiến đấu và khu vực bảo đảm của các đoàn hậu cần. Quân y chiến dịch đã sử dụng 22 bệnh viện, 14 bệnh viện bố trí phía trước làm tuyến sau cho các phân đội quân y và cơ sở điều trị của các quân đoàn, 8 bệnh viện bố trí ở căn cứ phía sau thu dung điều trị những thương binh, bệnh binh không còn khả năng trở về chiến đấu sau điều trị hoặc phải điều trị dài ngày. Trong số 22 bệnh viện thì 18 bệnh viện là của các Đoàn hậu cần Miền và của các quân khu tại chỗ, chỉ có 4 bệnh viện là của quân đoàn; 27 đội điều trị thì 25 đội đứng phía trước chỉ có 2 đội làm dự bị đứng phía sau.

Đối với đơn vị thọc sâu, các binh đoàn tố chức những đội phẫu thuật cơ động đi theo đội hình, thực hành cứu chữa tối khẩn cấp, nhanh chóng chuyển thương binh về bằng cơ giới.

Thiếu tướng Nguyễn Tụ (hàng sau, bên phải) cùng các đồng đội tại chiến trường Tây Nguyên.

Thiếu tướng Nguyễn Tụ (hàng sau, bên phải) cùng các đồng đội tại chiến trường Tây Nguyên.

Tuy nhiên chiến dịch chỉ diễn ra từ 17 giờ ngày 26/4 đến 11 giờ 30 ngày 30/4/1975 nên số lượng thương binh ít, tỷ lệ chỉ bằng 1/5 dự kiến, công tác cứu chữa và vận chuyến thương binh bệnh binh nói riêng và bảo đảm quân y nói chung không có khó khăn nhiều. Trong chiến dịch này, sức khỏe bộ đội bảo đảm trên 97%, có khoảng 4.903 thương binh, bằng 2,1% so với quân số trực tiếp chiến đấu.

Ở tuổi 97, có mặt ở những chiến dịch cam go nhất, từ chiến dịch Tây Bắc, Điện Biên Phủ đến Tây Nguyên, chiến dịch Hồ Chí Minh, Thiếu tướng Nguyễn Tụ được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhìn lại cuộc đời bao phen vào sinh, ra tử với đồng đội, ông khiếm tốn nói với anh em chiến hữu của mình: “Anh hùng của tôi là của các ông. Vì nếu các ông không làm thì tôi cũng không có thành tích gì”.

Từng cầm dao mổ trực tiếp, cho đến tham gia công tác tổ chức, điều phối chăm sóc sức khỏe cho các chiến sĩ trên mặt trận khốc liệt nhất ở Tây Nguyên, ông tổng kết: “Trong đời tôi, tôi nghĩ dù có giỏi kỹ thuật đến đâu, thì trước hết phải làm công tác tổ chức thật tốt. Tại Điện Biên Phủ, việc phân luồng đưa thương bệnh binh tránh ùn tắc ở cửa hầm, giảm tử vong là một minh chứng như vậy. Phải tổ chức tốt, mới phát huy được kỹ thuật tốt. Những điều tổng kết này với tôi rất đắt”.  

Một điều tổng kết nữa của Chủ nhiệm quân y mặt trận Tây Nguyên, chính là việc triển khai bảo đảm quân y theo khu vực, thực hiện phương châm"Lực lượng tại chỗ là lực lượng cơ động nhất". Đột phá cơ bản của ngành quân y trong giai đoạn này chính là xác định bảo đảm quân y thời chiến theo khu vực, theo hướng và theo tuyến, kết hợp quân dân y.

Gần 80 năm tuổi Đảng, Thiếu tướng Nguyễn Tụ cho rằng với một con người, quan trọng nhất là việc học, vì trường đời có kiến thức vô cùng rộng lớn và phải biết vận dụng kiến thức đó vào cuộc sống. “Nếu không nghĩ tới thương binh, chúng tôi không bao giờ nghĩ được tới việc đắp lá chuối để trị bỏng cho thương binh. Không nghĩ tới sức khỏe các chiến sĩ, chúng tôi đã không thể có nhiều sáng kiến trong hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy”, ông giãi bày.

Ngày xuất bản: Tháng 4/2025
Nội dung: THẢO LÊ-THIÊN LAM
Ảnh: Nhân Dân, TTXVN, QĐND
Trình bày: PHI NGUYÊN