
Giai đoạn 1954-1975 là thời kỳ lịch sử đầy thử thách nhưng cũng hết sức hào hùng của dân tộc Việt Nam. Đây là khoảng thời gian đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền theo Hiệp định Geneva, miền bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn miền nam tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong bối cảnh đó, Báo chí Cách mạng Việt Nam không chỉ là phương tiện thông tin mà còn là vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, cổ vũ nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Báo chí không ngừng phát triển cả về tổ chức, nội dung lẫn hình thức, góp phần tích cực vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 và việc ký kết Hiệp định Geneva, đất nước ta bước vào thời kỳ mới với những nhiệm vụ chiến lược khác nhau ở hai miền. Miền bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, đóng vai trò hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền nam, nơi quân và dân đang tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong bối cảnh đó, báo chí cách mạng được xác định là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng, góp phần đắc lực vào công cuộc tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ, khát vọng hòa bình, thống nhất non sông của toàn dân tộc.
Các phóng viên ghi chép lại chuyện kể của 2 nữ du kích xã về thành tích dùng bộc phá diệt 75 tên địch, năm 1968 (Tác giả Thanh Phong - Thông tấn xã Giải Phóng). Ảnh Bảo tàng báo chí Việt Nam.
Các phóng viên ghi chép lại chuyện kể của 2 nữ du kích xã về thành tích dùng bộc phá diệt 75 tên địch, năm 1968 (Tác giả Thanh Phong - Thông tấn xã Giải Phóng). Ảnh Bảo tàng báo chí Việt Nam.
Từ sau 1954, báo chí cách mạng ở miền bắc có bước phát triển vượt bậc. Theo thống kê, đến năm 1957, đã có khoảng 134 tờ báo các loại được xuất bản, bao gồm nhật báo, tuần báo, nguyệt san, tạp chí chuyên ngành,... Trong đó, nổi bật nhất là các cơ quan báo chí lớn như: Báo Nhân Dân – cơ quan Trung ương của Đảng; Báo Quân đội nhân dân – tiếng nói của lực lượng vũ trang; Tạp chí Cộng sản – diễn đàn lý luận chính trị quan trọng. Ngoài ra, còn có hàng loạt tờ báo thuộc các đoàn thể chính trị-xã hội như Phụ nữ Việt Nam, Lao Động, Thiếu niên Tiền phong... cùng hệ thống báo Đảng địa phương.

Đài Tiếng nói Việt Nam và Thông tấn xã Việt Nam cũng đóng vai trò nòng cốt trong việc truyền tải thông tin kịp thời, chính xác và sinh động. Đặc biệt, Đài Tiếng nói Việt Nam với các chương trình phát thanh phong phú như thời sự, quân đội, văn hóa, nông nghiệp, thanh niên... đã nhanh chóng trở thành cầu nối giữa lãnh đạo và nhân dân. Các chương trình phát thanh đối nội, đối ngoại bằng nhiều thứ tiếng (Anh, Pháp, Trung, Lào, Khmer...) giúp nâng cao vị thế đối ngoại của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời phục vụ hiệu quả công tác tuyên truyền cho phong trào giải phóng miền nam.
Nhà quay phim Nguyễn Thành Thái tác nghiệp trên điểm cao 723 trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, tháng 02.1971. Ảnh Bảo tàng báo chí Việt Nam.
Nhà quay phim Nguyễn Thành Thái tác nghiệp trên điểm cao 723 trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, tháng 02.1971. Ảnh Bảo tàng báo chí Việt Nam.
Báo chí văn học nghệ thuật trong giai đoạn này cũng có bước phát triển mạnh mẽ. Tạp chí Văn Nghệ, do Hội Nhà văn Việt Nam chủ quản, tiếp tục là diễn đàn quan trọng của giới văn nghệ sĩ. Các cây bút lớn như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu... không chỉ sáng tác văn thơ, mà còn viết báo, góp phần làm cho báo chí văn nghệ trở thành lực lượng tiên phong tuyên truyền và phục vụ nhiệm vụ chính trị, đồng thời nâng cao giá trị tư tưởng, thẩm mỹ và nhân văn của báo chí cách mạng.

Từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ” ở miền nam và đánh phá miền bắc bằng không quân và hải quân, tình hình đất nước bước vào giai đoạn cam go, quyết liệt hơn bao giờ hết. Trước tình hình đó, báo chí cách mạng càng thể hiện rõ vai trò xung kích của mình trên mặt trận tư tưởng-văn hóa.
Ngay từ đầu, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ đã chỉ đạo sát sao đối với báo chí. Các chỉ thị, thông tư về công tác báo chí được ban hành kịp thời, định hướng rõ ràng các nhiệm vụ trọng tâm: vạch trần tội ác chiến tranh xâm lược của Mỹ; cổ vũ tinh thần chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; động viên toàn dân thực hiện khẩu hiệu “Mỗi người làm việc bằng hai”; biểu dương gương chiến đấu dũng cảm của quân và dân miền nam; phản ánh sâu sắc công cuộc xây dựng hậu phương lớn miền bắc.
Báo Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản, Báo Quân đội nhân dân và hàng trăm tờ báo từ Trung ương đến địa phương, các đoàn thể chính trị-xã hội... đã đồng loạt triển khai các chuyên trang, chuyên mục phản ánh sinh động các phong trào thi đua, các gương chiến đấu anh dũng, các sáng kiến sản xuất và các sự kiện chính trị lớn. Nhiều phóng viên, nhà báo không ngại gian khổ, hy sinh, vượt qua bom đạn để bám sát mặt trận, đưa tin từ các chiến trường ác liệt như Trị Thiên, Tây Nguyên, Nam Bộ...
Báo Quân đội nhân dân là một trong những tờ báo tiêu biểu nhất trong thời kỳ này. Với lực lượng phóng viên được phân công đến các binh chủng, quân khu, chiến dịch..., báo đã kịp thời phản ánh trung thực và sâu sắc những diễn biến trên mặt trận, truyền cảm hứng và sức mạnh tinh thần tới hàng triệu người dân và chiến sĩ.
Bác Hồ với cán bộ, phóng viên, nghệ sĩ Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1967. (Ảnh tư liệu)
Bác Hồ với cán bộ, phóng viên, nghệ sĩ Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1967. (Ảnh tư liệu)
Đài Tiếng nói Việt Nam tiếp tục mở rộng nội dung phát thanh với nhiều chương trình mới, chú trọng đến cả đối nội và đối ngoại. Những chương trình như “Tiếng nói từ miền nam yêu thương”, “Thư miền nam”, “Tiếng hát át tiếng bom”... đã trở thành biểu tượng tinh thần của cả dân tộc trong kháng chiến. Đặc biệt, đài phát thanh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền nam và sau này là Đài Phát thanh Giải phóng đóng vai trò rất quan trọng trong công cuộc tuyên truyền, cổ vũ phong trào đấu tranh ở miền nam.
Song song với đó, từ năm 1970, miền bắc Việt Nam bắt đầu có truyền hình. Dù ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, Đài Truyền hình Việt Nam vẫn phát sóng được những chương trình đầu tiên vào năm 1971 tại Hà Nội. Mặc dù điều kiện kỹ thuật còn hạn chế, nhưng việc phát sóng truyền hình vào thời điểm đó là một kỳ tích, mở ra một hướng đi mới cho báo chí cách mạng, bổ sung thêm một phương tiện truyền thông quan trọng phục vụ tuyên truyền và giáo dục.
Buổi phát sóng đầu tiên của Truyền hình Việt Nam. (Ảnh tư liệu)
Buổi phát sóng đầu tiên của Truyền hình Việt Nam. (Ảnh tư liệu)
Thông tấn xã Việt Nam cũng có bước phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn này. Cơ quan này bảo đảm hoạt động đưa tin với công suất cao, phục vụ cả trong nước và quốc tế. Đặc biệt, sự kiện hợp nhất với Thông tấn xã Giải phóng sau năm 1975 là dấu mốc quan trọng, tạo nền tảng cho một cơ quan thông tấn thống nhất, hiện đại và hiệu quả.
Báo chí địa phương cũng phát huy vai trò trong việc tuyên truyền các phong trào thi đua sản xuất, bảo vệ hậu phương, đồng thời nêu gương người tốt việc tốt ở từng địa bàn. Nhiều tờ báo địa phương như Hà Nội Mới, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An... được cải tiến cả về nội dung và hình thức.
Thông tấn xã Việt Nam cũng có bước phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn này. Cơ quan này bảo đảm hoạt động đưa tin với công suất cao, phục vụ cả trong nước và quốc tế. Đặc biệt, sự kiện hợp nhất với Thông tấn xã Giải phóng sau năm 1975 là dấu mốc quan trọng, tạo nền tảng cho một cơ quan thông tấn thống nhất, hiện đại và hiệu quả.
Báo chí địa phương cũng phát huy vai trò trong việc tuyên truyền các phong trào thi đua sản xuất, bảo vệ hậu phương, đồng thời nêu gương người tốt việc tốt ở từng địa bàn. Nhiều tờ báo địa phương như Hà Nội Mới, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An... được cải tiến cả về nội dung và hình thức.
Bản tin chiến thắng đầu tiên phát đi từ Việt Nam Thông tấn xã ngày 30/4/1975. (Nguồn: Vietnam+)
Bản tin chiến thắng đầu tiên phát đi từ Việt Nam Thông tấn xã ngày 30/4/1975. (Nguồn: Vietnam+)
Có thể khái quát một số đặc điểm nổi bật của báo chí cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975 như sau:
Thứ nhất, báo chí gắn bó chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị của Đảng và đất nước. Báo chí không phải là công cụ thông tin đơn thuần mà là vũ khí tư tưởng sắc bén. Mọi nội dung thông tin đều hướng tới việc phục vụ sự nghiệp cách mạng, bảo vệ Tổ quốc, cổ vũ tinh thần yêu nước, phát huy sức mạnh toàn dân.
Thứ hai, tính chiến đấu cao. Báo chí trở thành người bạn đồng hành của chiến sĩ và nhân dân, cùng chia sẻ gian khổ nơi chiến trường, phản ánh những tấm gương anh hùng, những sáng kiến kháng chiến và tinh thần quả cảm của quân – dân cả nước. Nhiều nhà báo đã anh dũng hy sinh trên mặt trận thông tin.
Lễ truy điệu 5 phóng viên, kỹ thuật viên Thông tấn xã Giải phóng hy sinh trong Chiến dịch Mậu thân, năm 1968. (Ảnh Bảo tàng Báo chí Việt Nam)
Lễ truy điệu 5 phóng viên, kỹ thuật viên Thông tấn xã Giải phóng hy sinh trong Chiến dịch Mậu thân, năm 1968. (Ảnh Bảo tàng Báo chí Việt Nam)
Thứ ba, đa dạng về thể loại và phương thức tuyên truyền. Ngoài báo in, phát thanh, từ 1970 có thêm truyền hình. Sự phối hợp giữa các phương tiện giúp thông tin được truyền tải nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả hơn.
Thứ tư, gắn bó sâu sắc với đời sống nhân dân. Báo chí chú trọng phản ánh hơi thở cuộc sống, từ sản xuất, giáo dục, y tế đến văn hóa, văn nghệ. Những phong trào “người tốt, việc tốt”, “ba sẵn sàng”, “năm xung phong”, “ba đảm đang”... được báo chí lan tỏa rộng khắp.
Thứ năm, được tổ chức, lãnh đạo chặt chẽ. Công tác tổ chức và quản lý báo chí trong giai đoạn này được Đảng, Nhà nước chỉ đạo sâu sát. Các cơ quan báo chí hoạt động theo nguyên tắc thống nhất, định hướng tư tưởng chính trị rõ ràng, có hệ thống đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ báo chí vững mạnh, giàu lý tưởng cách mạng.
Có thể khẳng định, báo chí cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954-1975 là một bộ phận không thể tách rời của cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí đã hoàn thành xuất sắc vai trò tuyên truyền, giáo dục, cổ vũ và định hướng tư tưởng trong toàn xã hội. Với tinh thần “mỗi nhà báo là một chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng-văn hóa”, đội ngũ báo chí cách mạng đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để từ đó mở ra một thời kỳ mới – thời kỳ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong hòa bình, thống nhất.
E-Magazine | Nhandan.vn
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH - PGS,TS ĐINH THỊ THU HẰNG
Nội dung: TS TRẦN THỊ VÂN ANH
Biên tập: BÔNG MAI
Trình bày: VÂN THANH