
Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Trần Văn Khải, sự kết hợp giữa công cụ pháp lý mạnh mẽ với đồng thuận xã hội và hỗ trợ nguồn lực sẽ là “chìa khóa” để triển khai hiệu quả Luật, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ lộ trình đạt Net Zero vào 2050 của Việt Nam.
Quốc hội vừa thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Nhân dịp này, phóng viên Báo Nhân Dân đã có trao đổi với đại biểu Quốc hội Trần Văn Khải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, về những điểm mới đáng chú ý và các giải pháp để đưa Luật vào cuộc sống, góp phần hiện thực hóa mục tiêu Net Zero vào năm 2050.
Đại biểu Quốc hội Trần Văn Khải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội Trần Văn Khải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội.
Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về việc Quốc hội vừa thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào 2050?
Đại biểu Trần Văn Khải: Việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là một bước đi hết sức kịp thời và đúng đắn. Với 425/426 đại biểu tán thành, Luật đã thể hiện sự đồng thuận cao và quyết tâm của Quốc hội trong việc hoàn thiện khung pháp lý để thúc đẩy phát triển bền vững gắn với an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường. Luật mới thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị coi tiết kiệm năng lượng là quốc sách quan trọng, trách nhiệm của toàn xã hội.
Trong bối cảnh Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào 2050, Luật được thông qua chính là lời khẳng định mạnh mẽ về nỗ lực thực hiện cam kết đó. Nó tạo cơ sở pháp lý vững chắc để huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và người dân, loại bỏ những vướng mắc, rào cản hiện hữu, qua đó tạo hành lang thuận lợi và cơ chế khuyến khích cho các hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Tôi đánh giá cao tinh thần này của Quốc hội – thể hiện rõ vai trò tiên phong của cơ quan lập pháp trong việc cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng và đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn phát triển đất nước hiện nay.
Phóng viên: Việc sửa đổi Luật lần này có những nội dung nào mới, đáng chú ý so với Luật ban hành trước đây, thưa ông?
Đại biểu Trần Văn Khải: Lần sửa đổi Luật này đã bổ sung nhiều nội dung mới nổi bật, khác biệt đáng kể so với Luật hiện hành.
Trước hết, Luật đã bổ sung loạt khái niệm mới: thí dụ, định nghĩa “tổ chức dịch vụ năng lượng” (ESCO) – tức doanh nghiệp cung cấp giải pháp kỹ thuật, tài chính để thực hiện dự án tiết kiệm năng lượng theo hợp đồng hiệu quả năng lượng. Cùng với đó là khái niệm hợp đồng hiệu quả năng lượng và chứng chỉ quản lý năng lượng, tạo hành lang cho mô hình kinh doanh dịch vụ năng lượng chuyên nghiệp.
Thứ hai, Luật mới đưa ra các chính sách đột phá: coi sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả là một chỉ tiêu bắt buộc trong quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội từ cấp quốc gia đến địa phương; khuyến khích các doanh nghiệp lớn ký kết thỏa thuận tự nguyện về tiết kiệm năng lượng với cơ quan quản lý.
Thứ ba, Luật mở rộng phạm vi và nâng mức yêu cầu đối với các đối tượng sử dụng năng lượng trọng điểm. Danh sách cơ sở trọng điểm sẽ do địa phương lập hằng năm, hướng tới bao quát 75–80% tổng tiêu thụ năng lượng toàn xã hội (tăng từ khoảng 38% hiện nay).
Quốc hội bấm nút thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Quốc hội bấm nút thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Thứ tư, Luật bổ sung quy định dán nhãn năng lượng cho vật liệu xây dựng – một điểm mới quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong công trình xây dựng.
Thứ năm, một Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả được thiết lập để huy động nguồn lực tài chính hỗ trợ các dự án tiết kiệm năng lượng. Cùng với đó là các cơ chế ưu đãi thuế, tín dụng dự kiến ban hành kèm theo.
Ngoài ra, Luật còn đơn giản hóa thủ tục hành chính (thí dụ rút gọn quy định về kiểm toán năng lượng) và tăng cường phân cấp, phân quyền cho địa phương.
Tất cả những điểm mới này giúp Luật 2025 sát thực tiễn hơn, phù hợp thông lệ quốc tế, tháo gỡ điểm nghẽn và tạo động lực mạnh mẽ cho hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.
Phóng viên: Theo ông, việc sửa đổi Luật sẽ tạo ra những chuyển biến cụ thể gì nhằm thúc đẩy lộ trình cam kết của Việt Nam giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050?
Đại biểu Trần Văn Khải: Việc sửa đổi Luật lần này sẽ tạo những chuyển biến cụ thể, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ lộ trình đạt Net Zero vào 2050 của Việt Nam. Trước hết, các quy định mới sẽ cải thiện đáng kể hiệu suất năng lượng trên quy mô toàn nền kinh tế – mà theo ước tính của IEA, cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng có thể đóng góp trên 40% mức giảm phát thải khí nhà kính trong 20 năm tới. Luật yêu cầu các ngành, doanh nghiệp lớn cắt giảm lãng phí năng lượng bằng những biện pháp cụ thể (áp dụng định mức tiêu thụ năng lượng, bắt buộc kiểm toán và kế hoạch tiết kiệm năng lượng đối với cơ sở trọng điểm). Nhờ đó, cường độ năng lượng trên GDP sẽ giảm dần, kéo theo giảm cường độ phát thải – một yếu tố then chốt để đạt Net Zero.
Bên cạnh đó, Luật đã đưa nội dung chuyển đổi xanh vào chính sách quốc gia: khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tiên tiến, thúc đẩy năng lượng tái tạo, kiểm soát các ngành sử dụng năng lượng cao. Đây chính là các giải pháp giảm phát thải quan trọng.
Đại biểu Quốc hội Trần Văn Khải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội Trần Văn Khải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội.
Việc thành lập Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả sẽ huy động thêm nguồn vốn (trong và ngoài nước) để đầu tư cho công nghệ ít carbon, giúp doanh nghiệp chuyển đổi mô hình sản xuất theo hướng bền vững, nhằm thúc đẩy hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trên địa bàn cả nước, góp phần thực hiện cam kết giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Hơn nữa, Luật lồng ghép mục tiêu tiết kiệm năng lượng vào quy hoạch phát triển của từng địa phương, buộc các cấp chính quyền đưa yếu tố phát triển ít phát thải vào kế hoạch hành động.
Có thể nói, Luật sửa đổi đã biến những cam kết tại COP26 của Việt Nam thành hành động pháp lý cụ thể, tạo động lực và khuôn khổ để toàn xã hội chung tay giảm phát thải, tiến tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” đúng hạn.
Với 425/426 đại biểu tán thành, Luật đã thể hiện sự đồng thuận cao và quyết tâm của Quốc hội trong việc hoàn thiện khung pháp lý để thúc đẩy phát triển bền vững gắn với an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường.
Với 425/426 đại biểu tán thành, Luật đã thể hiện sự đồng thuận cao và quyết tâm của Quốc hội trong việc hoàn thiện khung pháp lý để thúc đẩy phát triển bền vững gắn với an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường.
Phóng viên: Vậy, đâu là thách thức lớn nhất trong việc thực thi Luật này để hiện thực hoá mục tiêu trên, thưa ông?
Đại biểu Trần Văn Khải: Thách thức lớn nhất trong thực thi Luật này nhằm hiện thực hoá mục tiêu Net Zero, theo tôi, là bảo đảm thực thi đồng bộ và hiệu quả các quy định của Luật trong thực tiễn. Luật đã có, nhưng làm sao để mọi cơ quan, doanh nghiệp và người dân thực sự nghiêm túc triển khai mới là vấn đề cốt lõi. Trước hết, nhận thức và thói quen của một bộ phận không nhỏ trong xã hội về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả còn chưa cao. Nhiều doanh nghiệp vẫn xem việc tiết kiệm năng lượng là gánh nặng chi phí hơn là một khoản đầu tư cho phát triển bền vững, dẫn đến tình trạng thực hiện đối phó, hình thức. Thêm vào đó, nguồn lực về tài chính và công nghệ còn hạn chế.
Để tuân thủ Luật, các cơ sở trọng điểm phải đổi mới dây chuyền, trang thiết bị hiệu suất cao – điều này đòi hỏi vốn đầu tư lớn và công nghệ tiên tiến, trong khi không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng và đủ khả năng.
Hiện nay, mức độ sẵn sàng về nhân lực chuyên môn cũng là rào cản với đội ngũ kiểm toán viên năng lượng, quản lý năng lượng được đào tạo bài bản còn thiếu về số lượng và yếu về kỹ năng, cần thời gian để củng cố. Bên cạnh đó, việc giám sát, chế tài vi phạm cần được thực thi nghiêm minh hơn nữa ở các địa phương – đây cũng là thách thức khi mà bộ máy quản lý còn mỏng và phải phối hợp liên ngành.
Cuối cùng, bối cảnh quốc tế đang đặt ra yêu cầu cao về giảm phát thải (như cơ chế thuế carbon của EU từ 2026) gây sức ép lớn lên doanh nghiệp Việt Nam. Thách thức đặt ra là phải chuyển đổi nhanh để đáp ứng “luật chơi” xanh toàn cầu, nếu không muốn hàng hóa của ta mất lợi thế.
Tóm lại, để biến quyết tâm trên văn bản thành kết quả thực tế đòi hỏi nỗ lực rất lớn, sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của các cấp, các ngành và cộng đồng doanh nghiệp. Đây chính là thách thức lớn nhất nhưng cũng là nhiệm vụ bắt buộc chúng ta phải vượt qua để đạt mục tiêu Net Zero.

Phóng viên: Theo ông, Việt Nam có thể học hỏi những mô hình, kinh nghiệm quốc tế nào để triển khai hiệu quả Luật này và hiện thực hóa mục tiêu Net Zero?
Đại biểu Trần Văn Khải: Nhiều mô hình quốc tế về sử dụng năng lượng hiệu quả là bài học quý cho Việt Nam.
Liên minh châu Âu (EU) là điển hình với khung pháp lý toàn diện, chặt chẽ. EU đặt mục tiêu ràng buộc đến 2030 giảm ít nhất 11,7% mức tiêu thụ năng lượng cuối so với kịch bản cơ sở. Để đạt được, EU ban hành Chỉ thị Hiệu quả Năng lượng yêu cầu mỗi nước tiết kiệm một tỷ lệ năng lượng hằng năm, khu vực công phải đi đầu (cải tạo ít nhất 3% diện tích tòa nhà công mỗi năm). Đồng thời, EU thực thi Chỉ thị Ecodesign và Ghi nhãn năng lượng buộc các thiết bị, máy móc tuân thủ chuẩn hiệu suất tối thiểu và dán nhãn mức tiêu thụ rõ ràng, giúp người dân dễ dàng lựa chọn sản phẩm tiết kiệm điện. EU cũng yêu cầu tất cả công trình xây mới từ 2030 phải là công trình gần như không phát thải. Những chính sách đồng bộ đó giúp EU giữ vai trò tiên phong về tăng trưởng xanh.
Nhật Bản lại nổi tiếng nhờ sự kết hợp giữa nền tảng pháp lý vững chắc và ý thức xã hội cao. Ngay từ sau khủng hoảng dầu mỏ thập niên 1970, Nhật Bản đã ban hành Luật Bảo tồn năng lượng và liên tục cập nhật để đáp ứng mục tiêu khí hậu. Nhật Bản hiện thuộc nhóm dẫn đầu thế giới về hiệu quả năng lượng nhờ chính sách linh hoạt, Chính phủ cam kết mạnh mẽ và sự chung sức của toàn xã hội. Một sáng kiến tiêu biểu là Chương trình Top Runner (Người dẫn đầu) áp dụng từ 1999: thay vì chuẩn tối thiểu, Nhật Bản lấy mức hiệu quả năng lượng của sản phẩm tốt nhất thị trường làm chuẩn tương lai cho cả nhóm sản phẩm. Cách tiếp cận sáng tạo này buộc các hãng liên tục đổi mới công nghệ, đưa Nhật Bản trở thành cường quốc về thiết bị tiết kiệm điện. Song song, Nhật cũng phát động nhiều phong trào xã hội như “Cool Biz” (mặc thoáng mát, đặt điều hòa 28°C), hỗ trợ người dân, doanh nghiệp thay thế thiết bị cũ bằng thiết bị hiệu suất cao (như Tokyo trợ cấp đổi tủ lạnh, máy điều hòa tiết kiệm điện). Nhờ vậy, tiết kiệm năng lượng trở thành một nét văn hóa trong đời sống và kinh doanh ở Nhật Bản
Hàn Quốc là một hình mẫu châu Á khác. Chính phủ Hàn Quốc sớm đề ra Chiến lược Tăng trưởng xanh, coi tiết kiệm năng lượng là trọng tâm. Hàn Quốc đặt ra những mục tiêu rất cao: từ năm 2025, 100% nhà xây mới phải là nhà “zero năng lượng” không phát thải; các tòa nhà hiện hữu cũng được hỗ trợ cải tạo để giảm 30% tiêu thụ năng lượng (tiến tới 60% trong giai đoạn sau). Để đạt mục tiêu, Hàn Quốc triển khai mạnh mẽ xây dựng công trình xanh, áp dụng tiêu chuẩn cách nhiệt, thông gió tự nhiên, năng lượng mặt trời và địa nhiệt cho nhà ở. Đồng thời, Chính phủ phát động các chiến dịch toàn quốc kêu gọi người dân thay đổi thói quen sinh hoạt, tích cực tiết kiệm điện, coi đó là nghĩa vụ yêu nước trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.
Bài học từ các mô hình quốc tế trên cho thấy Việt Nam cần một hệ thống luật pháp đồng bộ, có chỉ tiêu bắt buộc và cơ chế giám sát chặt chẽ; đồng thời khuyến khích đổi mới công nghệ thông qua các chương trình như Top Runner hoặc quỹ hỗ trợ tài chính (hiện nhiều nước đã có quỹ tiết kiệm năng lượng riêng); và đặc biệt, phải nâng cao nhận thức, huy động toàn dân tham gia như một phong trào.
Sự kết hợp giữa công cụ pháp lý mạnh mẽ với đồng thuận xã hội và hỗ trợ nguồn lực sẽ là “chìa khóa” để triển khai hiệu quả Luật và đạt được mục tiêu Net Zero.

Phóng viên: Để đưa Luật vào cuộc sống, góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, theo ông cần tập trung vào những giải pháp quan trọng nào?
Đại biểu Trần Văn Khải: Để đưa Luật vào cuộc sống và nâng cao nhận thức cộng đồng về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, theo tôi cần tập trung đồng bộ một số giải pháp trọng tâm sau:
Trước hết là công tác tuyên truyền, giáo dục. Cần đẩy mạnh truyền thông thường xuyên, liên tục và sáng tạo để mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp hiểu rõ lợi ích thiết thực của tiết kiệm năng lượng và coi đó là trách nhiệm của mình. Kinh nghiệm cho thấy giai đoạn đầu thực hiện chương trình quốc gia, việc tăng cường tuyên truyền đã giúp trên 90% người dân và doanh nghiệp nắm được các biện pháp tiết kiệm và chuyển biến ý thức rõ rệt. Do đó, chúng ta phải tiếp tục đa dạng hóa hình thức truyền thông (trên báo chí, mạng xã hội, thông qua hệ thống giáo dục, các đoàn thể quần chúng), chú trọng thế hệ trẻ và người lao động tại các cơ sở trọng điểm.
Thứ hai, cần nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn và triển khai các công cụ hỗ trợ mà Luật đã đề cập. Thí dụ, sớm thành lập và vận hành Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả để hỗ trợ tài chính cho các dự án đầu tư tiết kiệm năng lượng; xây dựng cơ chế ưu đãi tín dụng xanh, ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ tiết kiệm năng lượng. Triển khai rộng mô hình hợp đồng ESCO, trong đó doanh nghiệp dịch vụ đầu tư cải thiện hiệu suất năng lượng cho khách hàng và thu hồi vốn bằng phần năng lượng tiết kiệm được – mô hình này sẽ giúp tháo gỡ bài toán vốn và kỹ thuật cho nhiều đơn vị.
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thực thi pháp luật. Các bộ, ngành, đặc biệt là Uỷ ban nhân dân các tỉnh thành, phải quyết liệt chỉ đạo thanh tra việc chấp hành các quy định về tiết kiệm năng lượng tại địa bàn mình. Cần đưa chỉ tiêu tiết kiệm năng lượng vào đánh giá thi đua khu vực công và trách nhiệm người đứng đầu. Đồng thời, nhanh chóng hoàn thiện cơ sở dữ liệu năng lượng quốc gia, ứng dụng chuyển đổi số trong theo dõi định mức tiêu thụ năng lượng của các cơ sở trọng điểm, qua đó kịp thời phát hiện và chấn chỉnh vi phạm.
Thứ tư, chú trọng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực về năng lượng. Chúng ta cần mở rộng các chương trình đào tạo, cấp chứng chỉ cho đội ngũ quản lý năng lượng và kiểm toán viên năng lượng, bảo đảm mỗi cơ sở trọng điểm có cán bộ đủ năng lực như Luật yêu cầu. Song song, khuyến khích các viện, trường đưa nội dung sử dụng năng lượng hiệu quả vào chương trình đào tạo kỹ sư, cán bộ quản lý.
Đại biểu Quốc hội Trần Văn Khải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội Trần Văn Khải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội.
Thứ năm, nêu gương và nhân rộng các mô hình tốt. Các cơ quan Nhà nước phải đi đầu trong thực hành tiết kiệm điện (chiếu sáng công cộng, công sở gương mẫu tiết kiệm). Từng ngành nên có chương trình thi đua, vinh danh những doanh nghiệp thực hiện tốt Luật, áp dụng sáng kiến tiết kiệm năng lượng. Những mô hình thí điểm như tòa nhà sử dụng năng lượng gần bằng không, dây chuyền sản xuất ít tiêu hao… cần được hỗ trợ và nhân rộng.
Cuối cùng, không thể thiếu sự hợp tác quốc tế và nghiên cứu khoa học. Chúng ta nên tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ các đối tác phát triển, học hỏi sâu hơn kinh nghiệm từ EU, Nhật Bản, Hàn Quốc… để áp dụng phù hợp. Đồng thời thúc đẩy nghiên cứu trong nước về công nghệ tiết kiệm năng lượng, nội địa hóa thiết bị hiệu suất cao để giảm chi phí.
Với sự vào cuộc đồng bộ từ chính sách đến thực tiễn – “trên quyết liệt, dưới tích cực” – cùng sự hưởng ứng của người dân và doanh nghiệp, tôi tin rằng chúng ta sẽ sớm đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống. Qua đó, không chỉ tiết kiệm chi phí năng lượng cho quốc gia, cho mỗi tổ chức, hộ gia đình, mà quan trọng hơn là góp phần bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!
Chiều 18/6, trong khuôn khổ chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, với 425/426 đại biểu tán thành (chiếm 88,91% tổng số đại biểu). Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026.
Ngày đăng: 30/6/2025
Tổ chức sản xuất: Nam Đông
Thực hiện: Lê Hằng
Trình bày: Thùy Lâm