Từ nhỏ, tôi thích đọc sách, báo và rất yêu nghề làm báo. Hồi kháng chiến chống thực dân Pháp, tôi có 2 năm ở cùng cơ quan Tỉnh đội Kiến An tại vùng tự do Vĩnh Bảo. Hằng ngày, ngoài giờ đi học, tôi thường tò mò xem và học các anh bộ đội làm bản tin quân sự in trên đá. Trở về quê hương sau ngày giải phóng, được giao làm công tác thông tin, tôi làm bản tin xã Tân Trào, viết bằng mực tím trên giấy học trò, với các cột mục như trang báo và mày mò nhào bột gạo tạo khuôn in bằng bột. Bản tin được phát khắp các xóm trong xã.

Năm 1960, tôi được tuyển thẳng vào Báo Kiến An. Hồi ấy cơ quan ít người nên ai cũng phải làm nhiều việc. Do có chút năng khiếu, tôi được giao vừa viết bài, chụp ảnh, vừa minh họa, trình bày báo và sửa bản in. Năm 1963, Báo Kiến An hợp nhất với Báo Hải Phòng kiến thiết thành Báo Hải Phòng. Những năm làm Báo Hải Phòng ra hằng ngày, được đi nhiều, viết nhiều thể loại ở các địa bàn, lĩnh vực khác nhau là thời gian quý giá giúp tôi được rèn luyện mọi mặt và mau trưởng thành.

Tháng 8/1965, tôi rời thành phố Cảng tham gia lớp báo chí đặc biệt của Trường Tuyên huấn Trung ương, vừa học chính trị, nghiệp vụ vừa luyện tập quân sự. Đầu năm 1966, tôi cùng đoàn cán bộ báo chí hành quân vượt Trường Sơn vào nam. Sau hơn bốn tháng gian khổ vượt qua mưa bom bão đạn, chúng tôi đến chiến trường Nam Bộ. Tôi trở thành phóng viên Báo Giải Phóng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền nam Việt Nam và mang bút danh Cao Kim.

Làm báo nơi chiến trường khác với ở hậu phương lớn. Tại đó, nhà báo vừa chiến đấu, tham gia xây dựng cơ sở cách mạng vừa viết báo. Giữa năm 1966, tôi được cử về vùng đồng bào dân tộc ít người tại Bình Long (nay là Bình Phước) vận động quần chúng và giúp tỉnh xuất bản tờ báo địa phương. Được hòa mình trong cuộc sống vô cùng gian khổ cùng đồng bào, đồng nghiệp ở nam Tây Nguyên, tôi có nhiều kỷ niệm đẹp và kinh nghiệm làm báo đáng nhớ.

Cuối năm 1967, tôi được phân công cùng nhà báo Hồng Châu (tức Thép Mới), Tổng Biên tập Báo Giải Phóng (sau này là Phó Tổng Biên tập Báo Nhân Dân), đặc phái viên về báo chí của Trung ương Đảng tại miền nam đột nhập thành phố Sài Gòn - Gia Định để viết về cuộc đấu tranh của nhân dân đô thị chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đồng thời bí mật chuẩn bị mọi mặt để xuất bản báo cách mạng ngay tại sào huyệt địch. Đây là việc rất khó, đầy hiểm nguy và chưa từng làm nhưng chúng tôi đều quyết tâm chuẩn bị. Từ lâu, cánh làm báo trẻ rất kính trọng, trân quý nhà báo Hồng Châu về tài năng, đức độ và sức làm việc. Theo kế hoạch, anh Hồng Châu viết xã luận, bình luận, một số bài chốt và biên tập những văn bản quan trọng cần công bố; còn các việc khác để ra báo, từ chuẩn bị măng-sét (tên tờ báo), viết tin, bài, biên tập, chụp ảnh, trình bày, xây dựng các trang, mục, đến tập hợp lực lượng viết, liên hệ tìm cơ sở in, đọc lại bản in thử và tổ chức các nhóm phát hành báo đến công chúng... đều do tôi đảm nhiệm. Làm báo giữa sào huyệt của Mỹ-ngụy dày đặc lực lượng bảo vệ cùng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, kiểm soát rất gắt gao, vô cùng nguy hiểm nhưng do yêu cầu của cách mạng, lại được anh Hồng Châu tin cậy, tôi ráng làm hết sức. Được gần gũi, học hỏi kinh nghiệm và hoạt động cùng một cây bút tầm cỡ, đó là cơ hội rất quý báu đối với tôi.

Nhà báo Kim Toàn giới thiệu với đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười về gian trưng bày của Hội Nhà báo Hải Phòng tại Hội báo Xuân toàn quốc năm 1993 tại Hà Nội.

Nhà báo Kim Toàn giới thiệu với đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười về gian trưng bày của Hội Nhà báo Hải Phòng tại Hội báo Xuân toàn quốc năm 1993 tại Hà Nội.

 Với sự khéo léo, chu đáo và hết sức khẩn trương của cơ sở, hai anh em chúng tôi thay hình đổi dạng, từ người “miệt rừng” trở thành dân đô thị. Nhà báo Hồng Châu đạo mạo, bệ vệ như một nhà tư sản bụng bự, còn tôi cũng ra dáng thợ chụp hình dạo tại vườn hoa. Tôi gom và đọc kỹ các tờ báo phát hành tại Sài Gòn, tìm hiểu văn phong, cách đặt tít, trình bày, dự kiến một số măng-sét để cấp trên lựa chọn và chuẩn bị bài, tin, ảnh dự phòng cho vài số báo.

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, tình hình tại Sài Gòn-Gia Định diễn biến nhanh và rất phức tạp. Để giành lại quyền kiểm soát những vùng bị quân ta chiếm giữ và cứu vãn tình thế thất bại, Mỹ-ngụy phản kích dữ dội, điên cuồng càn quét, gây tội ác đẫm máu với nhân dân ta. Chiến sự ngày càng ác liệt, việc chuẩn bị ra báo tại chỗ gặp nhiều khó khăn, cấp trên quyết định rút anh Hồng Châu ra khỏi nội đô, còn tôi ở lại tham gia Đội võ trang tuyên truyền của T4 do anh Hai Ca làm đội trưởng, vừa trực tiếp chiến đấu vừa viết báo. Những bài do tôi viết về gương chiến đấu, hy sinh dũng cảm của các chiến sĩ lực lượng võ trang giải phóng, tinh thần yêu nước của người dân và tình cảm của đồng bào ta luôn hướng về cách mạng... luôn được phát sóng trên đài phát thanh và đăng trên các báo cách mạng xuất bản tại mặt trận và ở miền bắc.

Trong những ngày tháng khốc liệt, tôi cùng đồng đội triền miên quần nhau với địch cả ngày lẫn đêm. Một hôm, tôi được điều sang tăng cường cho tổ chiến đấu thuộc Thông tấn xã Giải phóng do anh Võ Nhân Lý phụ trách. Chỉ ít phút sau, một tiểu đoàn bộ binh địch, có máy bay lên thẳng võ trang yểm trợ đến bao vây trận địa ta. Toàn đội võ trang tuyên truyền của T4 nổ súng chặn đứng các mũi tiến công và làm rối loạn đội hình của chúng. Sau trận giáp chiến “một mất, một còn”, gần một nửa số chiến sĩ của đơn vị hy sinh. Anh Hai Ca bị thương nặng, thoi thóp trút hơi thở cuối cùng tại Trạm quân y tiền phương, trong túi áo chỉ có duy nhất tờ giấy sẫm máu là Giấy giới thiệu sinh hoạt Đảng mang tên Cao Kim, khiến bác sĩ nhầm lẫn tôi hy sinh. Nhận được “Giấy báo tử”, Báo Giải Phóng tổ chức lễ truy điệu. Câu chuyện hy hữu đầy máu và nước mắt này trở thành kỷ niệm sâu sắc không thể nào quên.

Ký ức một thời hoa lửa một lần nữa được nhắc nhớ trong lần tiếp ông Antonio Maia Nieva, Tổng Thư ký Tổ chức Quốc tế các nhà báo (OIJ) khi tới thăm Hải Phòng đầu hè năm 1996. Khi đó tôi là Tổng Biên tập Báo Hải Phòng, Chủ tịch Hội Nhà báo thành phố, Ủy viên Thường vụ Hội Nhà báo Việt Nam. Ông Nieva đến miền nam Việt Nam từ khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược, từng đi cùng các phóng viên báo chí Mỹ và phương Tây tới Sài Gòn và một số vùng do Mỹ và chính quyền Sài Gòn kiểm soát để viết bài. Qua Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam Phan Quang giới thiệu, ông Nieva biết tôi từng là phóng viên báo Giải Phóng. Hai nhà báo ở hai chiến tuyến đã có cuộc trò chuyện thú vị. Ông Nieva chăm chú lắng nghe, ghi chép cẩn thận. Tôi kể về cuộc sống, chiến đấu và hoạt động báo chí đầy khó khăn, gian khổ nhưng rất anh dũng, lạc quan, sáng tạo của các phóng viên Báo Giải Phóng tại chiến trường. “Những năm kháng chiến, nhân dân cả nước đồng lòng chiến đấu, quyết giành độc lập, tự do cho đất nước. Các nhà báo Việt Nam yêu nước, khát khao hòa bình, dành trọn tuổi thanh xuân, sẵn sàng cầm bút, cầm súng chiến đấu, hy sinh cả tính mạng để góp phần vào chiến thắng của dân tộc. Chẳng ai có khái niệm “lĩnh lương”, chúng tôi sống giữa lòng dân, mọi thứ đều dựa vào dân. Khi người dân hiểu cuộc chiến đấu chống xâm lược là chính nghĩa và tin yêu chúng tôi như người thân, thì họ cũng có cách ủng hộ, nuôi giấu, bảo vệ, dù Mỹ và chính quyền Sài Gòn kiểm soát gắt gao đến đâu”. Tâm đắc những điều chia sẻ ấy, ông A.Nieva chân thành bày tỏ: “Tôi thật sự khâm phục Quân Giải phóng can trường, các nhà báo cách mạng và nhân dân Việt Nam anh hùng”. Sau đó, Tạp chí Người làm báo dân chủ của OIJ đã đăng bài của ông A.Nieva kèm theo ảnh về cuộc gặp ấn tượng, qua đó đồng nghiệp các nước thêm thấu hiểu thực chất cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và chí khí của dân tộc Việt Nam anh hùng.

------------------

Ngày xuất bản: Tháng 6/2025
Trình bày: Đăng Nguyên
Ảnh: Báo Nhân Dân, Báo Hải Phòng