Tại Hội nghị Thượng đỉnh về Biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc lần thứ 26 (COP26) diễn ra tại Glasgow, Anh vào tháng 11/2021, Việt Nam đã đưa ra một loạt các cam kết quan trọng nhằm đối phó với biến đổi khí hậu và thúc đẩy phát triển bền vững. Trong đó, Việt Nam cam kết đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 (NetZero); cam kết không xây dựng thêm các nhà máy nhiệt điện than mới sau năm 2030, giảm dần tỷ trọng nhiệt điện than trong tổng cơ cấu năng lượng của quốc gia, đồng thời tăng cường phát triển và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo…

Những cam kết của Việt Nam tại COP26 thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của chính phủ trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu và chuyển đổi sang một nền kinh tế xanh, bền vững. Để thực hiện các cam kết này, Việt Nam sẽ cần sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế, cũng như sự tham gia tích cực của tất cả các bên liên quan trong nước, trong đó việc thực hiện chuyển dịch năng lượng là yếu tố rất quan trọng.

Đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 là mục tiêu phát triển tất yếu của thế giới, thực hiện chủ yếu thông qua chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ, phát triển phát thải thấp. Đây cũng là “luật chơi” mới về thương mại, đầu tư toàn cầu được xác lập kể từ sau Hội nghị COP26. Việc giảm phát thải khí nhà kính, chuyển đổi năng lượng từ sử dụng nhiên liệu hoá thạch sang năng lượng sạch, năng lượng tái tạo là cơ hội để thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng bền vững, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và tận dụng các cơ hội hợp tác thương mại, đầu tư cho phát triển.

TS. Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, đại biểu Quốc hội Đoàn thành phố Hà Nội cho biết, Việt Nam nằm trong số 5 quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới do biến đổi khí hậu và ngày càng chịu nhiều ảnh hưởng trực tiếp của biến đổi khí hậu, bao gồm mực nước biển dâng cao, các hiện tượng thời tiết cực đoan và lượng mưa thay đổi. Theo tính toán sơ bộ của Ngân hàng Thế giới vào năm 2022, nền kinh tế Việt Nam chịu thiệt hại khoảng 10 tỷ USD, tương đương 3,2% GDP hàng năm do tác động của biến đổi khí hậu. Nếu không có các biện pháp thích ứng và giảm nhẹ thích hợp, ước tính tác động của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam vào khoảng 12% đến 14,5% GDP mỗi năm vào năm 2050.

TS. Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội

TS. Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội

Nhận thức được những tác động tiêu cực, khả năng dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu gây ra, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật và thực hiện các biện pháp liên quan nhằm ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, bảo đảm phát triển bền vững, trong đó tập trung vào lĩnh vực năng lượng, cụ thể như Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, các Quyết định Thủ tướng Chính phủ số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050, số 888/QĐ-TTg ngày 25/7/2022 về việc phê duyệt Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị COP26.

Đặc biệt là Quyết định 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 về việc phê duyệt Quy hoạch Điện VIII, trong đó đặt ra các mục tiêu tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo và cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng để hỗ trợ đất nước đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050; Quyết định số 893/QĐ-TTg ngày 20/7/2023 về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó đã lồng ghép Quy hoạch Điện VIII trong lộ trình rộng hơn cho ngành năng lượng, nhằm đạt được các mục tiêu phát triển của Việt Nam, đồng thời bảo đảm mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia có kế hoạch giảm sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng nhập khẩu và bảo đảm sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên trong nước. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 876/QĐ-TTg ngày 22/7/2022 về việc phê duyệt Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí carbon và khí metan của ngành giao thông vận tải, với mục tiêu tổng thể là phát triển hệ thống giao thông xanh, vận hành hoàn toàn bằng điện hoặc năng lượng xanh vào năm 2050 theo hướng phù hợp với mục tiêu phát thải ròng bằng “0” của Việt Nam. Bên cạnh đó, vào tháng 12/2022, Việt Nam đã tham gia Thỏa thuận Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP).

Tổ hợp trang trại năng lượng tái tạo với công suất 350 MW ở Ninh Thuận do TrungNam Group đầu tư có sản lượng khai thác đạt 950 triệu kWh-1 tỷ triệu kWh điện/năm.

Tổ hợp trang trại năng lượng tái tạo với công suất 350 MW ở Ninh Thuận do TrungNam Group đầu tư có sản lượng khai thác đạt 950 triệu kWh-1 tỷ triệu kWh điện/năm.

Gần đây, Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch Điện VIII đặt mục tiêu phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo (không bao gồm thuỷ điện) phục vụ sản xuất điện, đạt tỷ lệ khoảng 28-36% vào năm 2030; định hướng đến năm 2050 tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 74-75%. Kiểm soát mức phát thải khí nhà kính từ sản xuất điện đạt khoảng 197-199 triệu tấn năm 2030 và còn khoảng 27 triệu tấn vào năm 2050. Hướng tới đạt mức phát thải đỉnh không quá 170 triệu tấn vào năm 2030 với điều kiện các cam kết theo JETP được các đối tác quốc tế thực hiện đầy đủ, thực chất.

Theo TS. Tạ Đình Thi, Việt Nam đã có thời kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, GDP bình quân đầu người tăng gấp 3,6 lần chỉ trong 2 thập kỷ, đạt 3.700 USD vào năm 2022 và đang nổi lên là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á và trên thế giới. Xu hướng tăng trưởng dự kiến sẽ vẫn được tiếp tục, thúc đẩy nhu cầu năng lượng. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, mở rộng sản xuất và sự phát triển của tầng lớp trung lưu dẫn đến nhu cầu năng lượng liên tục tăng cao.

Theo dự báo, trong những năm tới, nhu cầu điện năng sẽ tăng trưởng khoảng 8-10%/năm. Trong khi đó, các nguồn năng lượng hóa thạch như than đá, dầu mỏ và khí đốt đang dần cạn kiệt và gây hại cho môi trường, điều này đặt ra thách thức lớn trong việc bảo đảm nguồn cung năng lượng ổn định và bền vững, đồng thời làm gia tăng áp lực phải tìm kiếm các giải pháp năng lượng thay thế.

Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới thực hiện mục tiêu NetZero của Việt Nam, lĩnh vực năng lượng đóng vai trò đặc biệt quan trọng khi phát thải từ lĩnh vực năng lượng năm 2018 chiếm 68% lượng phát thải khí nhà kính quốc gia. Theo Chiến lược quốc gia biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050, đến năm 2030, phát thải từ lĩnh vực năng lượng cần giảm 32,6% so với kịch bản phát triển thông thường với lượng phát thải không vượt quá 457 triệu tấn CO2 tương đương (CO2tđ) và đến năm 2050, giảm 91,6% với lượng phát thải không vượt quá 101 triệu tấn CO2tđ.

Chính vì vậy, theo TS. Tạ Đình Thi, chuyển đổi năng lượng không chỉ là một nhiệm vụ quan trọng mà còn là yếu tố then chốt để bảo đảm an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội bền vững.

“Phát triển các nguồn năng lượng tái tạo là xu hướng tất yếu, không thể đảo ngược. Sự cần thiết phải chuyển đổi sang năng lượng xanh, sạch càng trở nên cấp bách khi những hậu quả của biến đổi khí hậu ngày càng trở nên rõ ràng và nghiêm trọng”, TS Tạ Đình Thi nhấn mạnh.

Đối với đất nước ta, quốc gia đang phát triển nhanh chóng và chịu nhiều rủi ro từ biến đổi khí hậu, để phát huy tiềm năng, lợi thế về điều kiện tự nhiên như nắng, gió..., việc ưu tiên phát triển năng lượng xanh, sạch không chỉ là lựa chọn chiến lược cho tăng trưởng kinh tế lâu dài và ổn định, mà còn góp một phần trách nhiệm của mình vào công cuộc bảo vệ môi trường sinh thái toàn cầu.

Theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, Việt Nam đặt mục tiêu năng lượng tái tạo đạt đạt tỷ lệ khoảng 28-36% vào năm 2030 và tăng đến 74-75% vào năm 2050. Gần đây nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/2025/NĐ-CP ngày 3/3/2025 quy định cơ chế mua bán điện trực tiếp. Đây bước đi có tính đột phá trong lộ trình thu hút nguồn vốn tư nhân trong đầu tư và sử dụng năng lượng tái tạo, phát triển thị trường điện cạnh tranh ở Việt Nam, đồng thời cũng sẽ giúp các doanh nghiệp sản xuất có cơ hội lựa chọn các nhà cung cấp điện để đạt được chứng chỉ sản xuất xanh.

Đánh giá về những kết quả đã đạt được trong quá trình chuyển dịch năng lượng của Việt Nam thời gian qua, TS. Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương cho rằng, sự phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam đã ghi nhận những bước tiến đáng kể trong những năm gần đây, với điện mặt trời và điện gió đã có sự phát triển nhanh chóng, đóng góp đáng kể vào cơ cấu năng lượng.

TS. Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương. Ảnh: Cổng thông tin điện tử Quốc hội

TS. Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương. Ảnh: Cổng thông tin điện tử Quốc hội

Theo đó, trong Báo cáo Triển vọng năng lượng Việt Nam - Đường đến phát thải ròng bằng 0 (tháng 6/2024), tính từ năm 2020 đến năm 2023, tổng công suất điện gió huy động tăng từ khoảng 538MW lên khoảng 5.059MW; công suất huy động điện mặt trời tăng từ 8.823MW lên khoảng 16.568MW. Bên cạnh đó, có 23 dự án điện sinh khối tổng công suất khoảng 523MW. Tổng công suất của các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng công suất đặt toàn hệ thống đã phát triển nhanh, tăng từ 15,6% năm 2020 lên 27,1% năm 2023. Quy mô hệ thống điện Việt Nam hiện đứng đầu khu vực ASEAN.

Việc tăng nhanh các nguồn cung điện gió, điện mặt trời đã góp phần tăng cường khả năng tự chủ về năng lượng, góp phần tích cực trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Đây là những bước tiến rất tích cực.

Tuy nhiên, dưới góc độ cơ quan giám sát, TS. Nguyễn Đức Hiển cũng thẳng thắn chỉ rõ, bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát triển năng lượng nói chung và phát triển năng lượng tái tạo thời gian qua cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cản trở sự chuyển dịch, phát triển của năng lượng Việt Nam. Tốc độ chuyển dịch năng lượng để đạt mục tiêu chuyển dịch từ các nguồn năng lượng truyền thống sang năng lượng xanh vẫn cần phải đẩy nhanh hơn nữa.

Để hướng tới đạt mức phát thải đỉnh không quá 170 triệu tấn vào năm 2030, tiến tới NetZero vào năm 2050, việc tham khảo kinh nghiệm quốc tế cũng như của các chuyên gia trong ngành để hiện thực hóa, thể chế hóa mục tiêu các Nghị quyết, Quy hoạch thành cơ chế, chính sách, biện pháp cụ thể, thiết thực, khả thi là rất quan trọng.

Trong thời gian tới, theo TS. Nguyễn Đức Hiển, cần triển khai 5 nhiệm vụ trọng tâm:

Một là, tiếp tục hoàn thiện khung chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng nói chung và phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng trong tiến trình chuyển dịch năng lượng.

Theo đó, cần xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể, tạo thuận lợi cho đầu tư phát triển ngành năng lượng, chuyển dịch năng lượng theo hướng tăng cường năng lực tự chủ, xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tham gia phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng mới. Đồng thời, chú trọng phát triển công nghiệp cơ khí chế tạo thiết bị năng lượng, các dịch vụ chuyên ngành để tăng cường tỷ lệ nội địa hóa theo yêu cầu đặt ra trong Nghị quyết 55.

Hai là, qua thực tiễn triển khai Nghị quyết 55 trong thời gian qua, cần tập trung phân tích, đánh giá các kết quả đạt được và những tồn tại hạn chế chủ yếu trong quá trình chuyển dịch năng lượng và phương hướng giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thời gian tới. Trong đó, cần quan tâm đến những nội dung cốt lõi trong quá trình dịch chuyển năng lượng nhằm đáp ứng các cam kết của Việt Nam tại COP26, chú trọng đến sự hợp tác, các hỗ trợ quốc tế để giúp Việt Nam thực hiện tốt nhất những cam kết này.

Ba là, tập trung nghiên cứu, triển khai các chính sách thúc đẩy hoạt động cải tiến và phát triển khoa học-công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo. Hình thành cơ chế các quỹ đầu tư, các trung tâm nghiên cứu cơ bản và trung tâm phát triển về năng lượng tái tạo, năng lượng mới, thúc đẩy công nghiệp môi trường gắn với yêu cầu phát triển kinh tế tuần hoàn trong ngành năng lượng.

Bốn là, triển khai các giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển năng lượng tái tạo. Hình thành các cơ chế carbon xanh, tài chính xanh để khuyến khích đầu tư cải tiến công nghệ cho phát triển năng lượng tái tạo.

Năm là, chủ động nghiên cứu đầu tư, triển khai các dự án năng lượng tái tạo mới như các dự án thí điểm sản xuất khí hydrogen, amoniac, nhất là hydrogen và amoniac xanh tại các khu vực có tiềm năng lợi thế về năng lượng tái tạo.

Định hướng phát triển khoa học và công nghệ cho chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ năng lượng truyền thống sang năng lượng tái tạo và bền vững hơn. Chính sách phát triển khoa học và công nghệ cho chuyển dịch năng lượng cần một chiến lược toàn diện, bao gồm hỗ trợ tài chính, ưu đãi thuế, phát triển hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, và nâng cao nhận thức cộng đồng. Sự cam kết mạnh mẽ từ Chính phủ, sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, viện nghiên cứu và hợp tác quốc tế là chìa khóa để đạt được mục tiêu chuyển dịch năng lượng bền vững và hiệu quả.

Các chuyên gia cho rằng, tỷ lệ công suất đặt năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió và điện mặt trời trong hệ thống điện Việt Nam đã tăng nhanh trong các năm gần đây và tiếp tục được đẩy mạnh trong thời gian theo các mục tiêu được đề ra trong Quy hoạch Điện VIII. Sự gia tăng nhanh chóng các nguồn năng lượng tái tạo biến đổi đòi hỏi hệ thống điện cần có tính linh hoạt cao hơn. Ngoài các công nghệ truyền thống, hệ thống điện cần được đầu tư thêm các công nghệ mới để tăng cường tính linh hoạt hệ thống.

Hiện nay, chi phí sản xuất điện từ các nguồn tái tạo ngày càng cạnh tranh hơn, góp phần thúc đẩy chuyển dịch năng lượng toàn cầu. Theo dữ liệu từ Bloomberg New Energy Finance (Bloomberg NEF) - tổ chức nghiên cứu, tư vấn toàn cầu về lĩnh vực năng lượng sạch, chi phí sản xuất điện quy dẫn (LCOE - Levelized Cost of Electricity) của các nhà máy điện mới ở Việt Nam năm 2022 cho thấy xu hướng giảm đáng kể, đặc biệt là ở các nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời và điện gió.

Chi phí sản xuất điện quy dẫn của các nhà máy điện mới theo công nghệ ở Việt Nam năm 2022.

Chi phí sản xuất điện quy dẫn của các nhà máy điện mới theo công nghệ ở Việt Nam năm 2022.

Cụ thể, chi phí phát điện quy dẫn của điện mặt trời tại Việt Nam đã giảm mạnh nhờ sự tiến bộ trong công nghệ và sự tăng trưởng của quy mô thị trường. Số liệu của BloombergNEF cho thấy, LCOE cho một nhà máy điện mặt trời ở mức 53-105 USD/MWh (theo giá thực tế năm 2022), khiến đây có thể trở thành nguồn phát điện quan trọng mới, rẻ và cạnh tranh nhất tại Việt Nam.

Tương tự, đối với các nhà máy điện gió, LCOE của điện gió cũng đã giảm đáng kể, ở mức 65-154 USD/MWh. Công nghệ turbine gió ngày càng hiệu quả, cùng với sự cải thiện trong khâu lắp đặt và bảo trì, đã giúp giảm chi phí tổng thể. Đặc biệt, điện gió ngoài khơi đang trở thành một lĩnh vực tiềm năng lớn với chi phí ngày càng hợp lý và khả năng sản xuất điện ổn định.

Bên cạnh đó, theo ông Philipp Munzinger, Giám đốc Chương trình Hỗ trợ năng lượng của Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) tại Việt Nam, công nghệ sản xuất và lưu trữ điện mặt trời đang dẫn đầu thị trường công nghệ năng lượng tái tạo với quy mô ngày càng mở rộng, mang lại lợi ích cho nhà đầu tư cũng như góp phần bảo đảm an ninh năng lượng và ổn định lưới điện. Do vậy, công nghệ sản xuất và pin lưu trữ điện mặt trời cần có những chính sách để phát triển.

Đối với việc đầu tư vào công nghệ năng lượng, ông Munzinger cho rằng, Việt Nam nên dành ưu tiên hàng đầu vào điện mặt trời. Theo ông Munzinger, đổi mới công nghệ là động lực cho nhiều đổi mới hơn nữa trong ngành năng lượng. Những tiến bộ trong công nghệ pin, điện phân và các giải pháp năng lượng sạch đang tạo ra một hiệu ứng chuỗi, mở ra những khả năng mới trong giao thông vận tải, quy trình công nghiệp và sử dụng năng lượng trong các tòa nhà.

Những thay đổi này, cùng với sự phát triển của cơ sở hạ tầng và các nguyên lý khử carbon, điện khí hóa, đang thúc đẩy sự chuyển dịch năng lượng toàn cầu và định hình tương lai ngành năng lượng. Mặt khác, những đổi mới này lại thúc đẩy nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng mới như lưới điện thông minh, mạng lưới trạm sạc xe điện, hệ thống đường ống dẫn và kho lưu trữ hydrogen.

Để tận dụng nguồn năng lượng mặt trời có tiềm năng và tương lai phát triển trong thời gian tới, ông Markus Bissel, Giám đốc Dự án Đối tác năng lượng Việt Nam-Đức của GIZ cho rằng, Việt Nam nên đầu tư cho hydrogen và công nghệ PtX (Power-to-X), vì đây cũng là một nguồn năng lượng tiềm năng và phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam. Hydrogen có thể được sử dụng trong ngành giao thông, vận tải, hoá chất và rất cần các cơ chế chính sách phát triển cũng như tạo điều kiện cho thị trường công nghệ PtX.

Ông Nguyễn Mai Dương - Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết, để thúc đẩy công nghệ năng lượng tái tạo tại Việt Nam, cần sự hợp tác từ 3 phía là các cơ quan quản lý, các đơn vị nghiên cứu và doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng, đối tượng áp dụng các chính sách vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, ông Dương cũng nhấn mạnh đến sự hỗ trợ từ đối tác quốc tế trong việc chia sẻ kinh nghiệm chuyển dịch năng lượng nhằm giúp Việt Nam tăng cường năng lực nội địa về công nghệ để chuyển dịch năng lượng thành công.

Về phía Bộ Khoa học và Công nghệ, bộ đã ban hành Quyết định số 1217/QĐ-BKHCN ngày 8/7/2022 phê duyệt Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2023 “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ năng lượng” (Chương trình KC.05/21-30). Mục tiêu của chương trình nhằm ứng dụng và làm chủ các công nghệ, thiết bị tiên tiến trong thăm dò, khai thác, sản xuất và sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng sơ cấp, sạch, sinh học, tái tạo, góp phần giảm phát thải khí nhà kính.

Ông Nguyễn Mai Dương - Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo (Bộ Khoa học và Công nghệ). Ảnh: TTXVVN

Ông Nguyễn Mai Dương - Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo (Bộ Khoa học và Công nghệ). Ảnh: TTXVVN

Đồng thời, phát triển công nghệ, thiết bị tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng, độ an toàn, tin cậy trong sản xuất, truyền tải, phân phối và sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Chương trình cũng đặt ra mục tiêu tiếp thu, ứng dụng, phát triển công nghệ lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu và công nghệ bức xạ, đồng vị phóng xạ trong các ngành, lĩnh vực.

Để ngăn chặn thiết bị, công nghệ lạc hậu trong lĩnh vực năng lượng, Bộ Khoa học và Công nghệ đã trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 14/2023/QĐ-TTg ngày 24/5/2023 ban hành Quyết định Danh mục và lộ trình phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng phải loại bỏ và các tổ máy phát điện hiệu suất thấp không được xây dựng mới.

Ngoài ra, để thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính và đạt mức phát thải ròng bằng 0 tại Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây dựng các chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực năng lượng, môi trường…, trong đó có Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn 2023-2030 “Nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ mục tiêu đạt phát thải ròng về 0 tại Việt Nam” (NETZero).

Quá trình chuyển đổi năng lượng là quá trình chuyển đổi lâu dài, cần sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị, đặc biệt là các doanh nghiệp. Mặc dù bước đầu đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ nhưng để chuyển đổi năng lượng hiệu quả, một trong những vấn đề đặt ra là cần tiếp tục đưa ra các chính sách và sửa đổi một số luật cho phù hợp với thực tế, nhằm thu hút các nguồn lực để phát triển năng lượng theo hướng bảo đảm an ninh năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo.

Ngoài ra, quá trình chuyển đổi năng lượng sẽ đòi hỏi phải tăng đáng kể vốn đầu tư và giảm thiểu tác động đến chi phí điện năng. Để đáp ứng nhu cầu tài chính này, cần kết hợp các nguồn lực, bao gồm phần hỗ trợ tài chính quốc tế, vốn đầu tư tư nhân và nguồn ngân sách nhà nước. Theo TS. Tạ Đình Thi, Việt Nam cần tiếp tục thảo luận với các đối tác phát triển song phương và đa phương để bảo đảm nguồn tài chính có mức ưu đãi phù hợp nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng.

Một trong những nguồn tài chính được kỳ vọng sẽ mở ra nhiều cơ hội, khơi thông nguồn lực cho Việt Nam là thông qua việc triển khai thực hiện chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP). Đặc biệt, bên cạnh nguồn tài chính 15,5 tỷ USD các đối tác đã cam kết huy động thông qua JETP, nếu Việt Nam triển khai thực hiện tốt, sẽ khơi thông được nguồn lực tài chính cho chuyển đổi chung, phát triển đất nước.

Ông Phạm Văn Tấn, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, tại COP28 diễn ra vào tháng 12/2023, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã công bố Kế hoạch huy động nguồn lực thực hiện Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) giữa Việt Nam và Nhóm các đối tác quốc tế (IPG). Các đối tác cam kết huy động nguồn lực ban đầu 15,5 tỷ USD trong vòng từ 3-5 năm tới để giải quyết nhu cầu cấp bách mang tính xúc tác cho chuyển đổi năng lượng công bằng của Việt Nam.

Thông tin về việc triển khai thực hiện JETP ở Việt Nam cũng như kế hoạch huy động nguồn lực, ông Phạm Văn Tấn cho biết, Việt Nam đã cùng các đối tác quốc tế bắt đầu đàm phán JETP từ tháng 11/2021 ở Glasgow (Anh) sau khi Nam Phi công bố JETP đầu tiên trên thế giới. Quá trình đàm phán JETP diễn ra trong suốt năm 2022 với nhiều nội dung có tác động lớn đến Việt Nam. Mặc dù có những khó khăn trong đàm phán nhưng với nỗ lực các bên, đến tháng 12/2022, khi Thủ tướng Chính phủ tham dự hội nghị tại Brussels của Bỉ, các bên đã công bố JETP, đưa Việt Nam trở thành nước thứ 3 công bố sau Nam Phi và Indonesia.

Theo Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, mục tiêu của JETP chủ yếu hỗ trợ Việt Nam phi carbon hóa hệ thống điện, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, chuyển dịch năng lượng, hướng tới phát thải ròng bằng 0. Tham gia tuyên bố, các đối tác cam kết huy động số tiền ban đầu 15,5 tỷ USD trong vòng 3-5 năm tới để giải quyết nhu cầu chuyển đổi năng lượng công bằng của Việt Nam. Trong đó, có 7,75 tỷ USD do Nhóm các đối tác quốc tế (IPG) huy động với điều kiện vay hấp dẫn hơn so với thị trường vốn hiện tại.

Ngoài ra, Liên minh tài chính Glasgow vì mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (GFANZ) huy động ít nhất 7,75 tỷ USD tài chính tư nhân hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp thông qua các khoản đầu tư của các tập đoàn, doanh nghiệp quốc tế. Tuy nhiên, nếu Việt Nam có cơ chế, thực hiện tốt thì con số hàng trăm tỷ USD có thể thực hiện được.

Nguồn cam kết hỗ trợ 7,7 tỷ USD của đối tác quốc tế là rất quan trọng tạo cơ chế, khơi thông nguồn lực để các doanh nghiệp cùng tham gia đầu tư vào lĩnh vực này. JETP là vấn đề mới và Việt Nam là nước đi đầu.
Ông Phạm Văn Tấn, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường

Theo ông Tấn, trong kế hoạch huy động nguồn lực đã xác định khoảng 220 dự án đầu tư và 60 nhóm công tác hỗ trợ nghiệp vụ, kỹ thuật đến năm 2030. Trên cơ sở gần 220 dự án đầu tư đã xác định, dự kiến có 73 dự án đầu tư cần thực hiện ngay, trong đó có 18 dự án đã được xác định trong các chương trình, đề án, kế hoạch, quy hoạch.

Phía IPG đã cam kết hỗ trợ 7,7 tỷ trong kế hoạch hành động cũng sẵn sàng đầu tư thực hiện ngay 7 dự án trong số dự án này. Phía các đối tác ngân hàng quốc tế cũng đã đầu tư khá nhiều trong thời gian qua, đơn cử như ngân hàng HSBC đã ký hàng loạt ghi nhớ với các tổ chức với nguồn kinh phí lên đến 11,8 tỷ USD, cao hơn nguồn cam kết 7,7 tỷ USD của các đối tác quốc tế…

Ông Tấn nhấn mạnh, nguồn cam kết hỗ trợ 7,7 tỷ USD của đối tác quốc tế là rất quan trọng tạo cơ chế, khơi thông nguồn lực để các doanh nghiệp cùng tham gia đầu tư vào lĩnh vực này. JETP là vấn đề mới và Việt Nam là nước đi đầu.

Tuy nhiên, đây là xu hướng chung toàn cầu trong chuyển đổi công bằng, trong đó trọng tâm là chuyển đổi năng lượng. Do đi tiên phong nên Việt Nam có thể sẽ gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về quy trình, thủ tục, cơ chế, chính sách, cách làm…, song điều này cũng mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam. Đặc biệt, nếu Việt Nam triển khai thực hiện tốt sẽ khơi thông được nguồn lực tài chính cho chuyển đổi chung, cũng như cho phát triển đất nước.

Ông Abhinav Goyal, Giám đốc Dịch vụ tư vấn dự án đầu tư và cơ sở hạ tầng, PwC Việt Nam nhận định, Việt Nam hiện nằm trong tốp 5 nền kinh tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương đạt được tốc độ khử carbon cần thiết.

Tuy nhiên, Việt Nam cần có nhiều hành động thiết thực hơn nữa để tăng tốc đến một tương lai đạt phát thải ròng bằng 0. Sự thay đổi này đòi hỏi có sự hợp tác hành động từ Chính phủ, thông qua các chính sách mạnh mẽ và hướng dẫn chi tiết, bao gồm thúc đẩy hợp tác toàn cầu và các doanh nghiệp, thông qua hoạt động kinh doanh có trách nhiệm và đầu tư xanh.

Theo ông Goyal, một yếu tố khác cần xem xét là cải thiện khả năng tiếp cận tài chính. Nếu xem xét các công nghệ như hydrogen, công nghệ chuyển đổi, LNG… thì các dịch vụ tài chính truyền thống sẽ không thể đáp ứng nhu cầu phát triển các lĩnh vực này. Việt Nam cần xem xét cách giải quyết các vấn đề như phân loại xanh, cải thiện cách tiếp cận tài chính khí hậu trong tài chính chuyển đổi, bán trái phiếu xanh, thiết lập quỹ năng lượng tái tạo. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có thể triển khai các gói tài chính ưu đãi của mình một cách hợp lý, chẳng hạn như tài trợ cho lưới truyền tải.

Thực hiện cam kết tại COP26 về đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam đã có những bước triển khai rất chủ động và tích cực ở các cấp độ khác nhau để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế từ nâu sang xanh, phát triển phát thải carbon thấp. Việc tiếp tục thống nhất nhận thức và hành động vì mục tiêu chung, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi năng lượng thành công là điều cần phải làm để góp phần tiếp tục triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực năng lượng, vừa thể hiện quyết tâm cùng với cộng đồng quốc tế giải quyết một trong những vấn đề cấp bách toàn cầu hiện nay, đó là vấn đề biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường.

Ngày xuất bản: 7/2025
Tổ chức thực hiện: NAM ĐÔNG
Nội dung: TRUNG HƯNG
Trình bày: THÙY LÂM
Ảnh: Báo Nhân Dân, TTXVN, Cổng thông tin điện tử Quốc hội