
Để thúc đẩy chuyển đổi xanh, hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050, Việt Nam đang cần có một hành lang pháp lý mạnh mẽ. Trong đó, việc sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả được xem là bước đi then chốt, tạo nền tảng pháp lý cho phát triển bền vững và giảm phát thải khí nhà kính.
Năng lượng đã và đang đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam. Nhu cầu sử dụng năng lượng ở Việt Nam đã tăng đáng kể trong những năm gần đây, đặc biệt là trong bối cảnh đô thị hóa và phát triển kinh tế. Trong giai đoạn từ 2010 đến 2019, tiêu thụ năng lượng sơ cấp tại Việt Nam tăng trưởng khoảng 6%/năm, đặc biệt sản lượng điện thương phẩm đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 9,71% trong giai đoạn 2010-2021. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có nhu cầu sử dụng năng lượng tăng nhanh nhất trong khu vực Đông Nam Á, cùng với Indonesia và Philippines.
Theo dự báo, trong những năm tới, nhu cầu năng lượng ở nước ta vẫn tăng trưởng ở mức cao. Do đó, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả tiếp tục được xác định là giải pháp hết sức cần thiết và thiết thực giúp cải thiện hiệu quả nền kinh tế, bảo tồn nguồn năng lượng quốc gia, bảo vệ môi trường và giảm phát thải khí nhà kính, góp phần giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu. Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả còn là giải pháp quan trọng trong thực hiện cam kết của Việt Nam tại Thỏa thuận Paris về ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, cũng như thực hiện lộ trình giảm phát thải khí nhà kính về 0 vào năm 2050.
Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 17/6/2010, sau khi đi vào thực thi đã giúp thiết lập hàng loạt giải pháp quản lý, kỹ thuật và ưu đãi ban đầu, góp phần nâng cao nhận thức trong xã hội, đồng thời giảm thiểu lãng phí năng lượng trong sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt.
Mặc dù đã tạo được nền móng quan trọng, song Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả hiện hành cũng đã bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt khi nền kinh tế và bối cảnh toàn cầu thay đổi nhanh chóng.
Nhiều thách thức khi tham gia vào thị trường quốc tế

Theo ông Đặng Hải Dũng, Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công, Bộ Công Thương, trong bối cảnh quốc tế như hiện nay, khoảng 10 năm tới sẽ có những thách thức phi truyền thống mới ảnh hưởng đến chúng ta.
Thứ nhất, những thách thức liên quan đến biến đổi khí hậu ở rất nhiều khía cạnh. Các thị trường nước ngoài hiện nay đều đưa ra những hàng rào kỹ thuật dưới dạng những tiêu chuẩn xanh, tiêu chuẩn ESG (bộ ba tiêu chuẩn dùng để đánh giá tác động và hoạt động của doanh nghiệp đối với môi trường, xã hội và quản trị) đặt lên cho hàng hóa xuất khẩu của chúng ta. Khi ra thị trường quốc tế, những hàng hóa này phải bảo đảm là những hàng hóa tiêu thụ rất ít năng lượng, phải phát thải ít ra môi trường,… Riêng đối với thị trường châu Âu, từ năm 2026 bắt đầu áp dụng thuế carbon, tức là sẽ kiểm đếm lượng phát thải như carbon trên sản phẩm Việt Nam xuất cho họ, và đây là lần đầu tiên họ chính thức chuyển từ hàng rào kỹ thuật sang hàng rào thuế quan.
Có thể thấy rằng 80% phát thải của các sản phẩm nằm ở phát thải từ các quá trình đốt năng lượng để sản xuất trong toàn bộ quá trình sản xuất, còn lại 20% mới liên quan đến việc chúng ta xử lý chất thải thế nào, xả thải ra sao,…
“Trước kia chúng ta tiết kiệm năng lượng để bảo đảm có đủ điện và năng lượng, nhưng sắp tới đây theo thị trường chung, nếu chúng ta xuất khẩu mà không bảo đảm được các tiêu chuẩn về môi trường xã hội thì sẽ bị đánh thuế, như vậy nếu không thực hiện được các cam kết giảm phát thải trên từng sản phẩm thì tính cạnh tranh của doanh nghiệp của chúng ta sẽ giảm, dẫn đến phải đối diện với nhiều vấn đề khó khăn khi xuất hàng vào các thị trường quốc tế”, ông Dũng nói.
Thứ hai, ông Dũng chỉ ra, liên quan đến đứt gãy chuỗi cung ứng, đây là điều mà chúng ta có thể thấy qua thời kì Covid-19. Những biến động chính trị ảnh hưởng trực tiếp lên chuỗi cung ứng, đặc biệt là chuỗi cung ứng năng lượng, những thay đổi giá dầu, giá khí,… cũng sẽ làm cho chúng ta mất chủ động trong việc hoạch định về thị trường hay chính sách sản phẩm của từng quốc gia.
Theo các chuyên gia, trong nhiều năm qua, ngành năng lượng có đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của đất nước, song, kèm theo đó cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, nhất là việc phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, dẫn đến ô nhiễm môi trường và phát thải khí nhà kính. Việc chuyển đổi từ năng lượng hóa thạch (như than, dầu, khí đốt) sang năng lượng tái tạo (như năng lượng mặt trời, gió, thủy điện) thường đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu lớn cho cơ sở hạ tầng, công nghệ và nghiên cứu. Thực tế cho thấy, chuyển đổi năng lượng là yếu tố cốt lõi trong chính sách Net Zero, nhưng nếu không có chiến lược đầu tư phù hợp, chi phí năng lượng cao có thể làm tăng lạm phát.


Theo ông Đặng Hải Dũng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả thời gian tới đây sẽ phải làm sao để xử lý được tiếp hai thách thức lớn nhất là thị trường quốc tế và chuỗi cung ứng này, để chúng ta dự báo được tốt hơn, qua đó bảo đảm kê khai của các doanh nghiệp tiêu thụ năng lượng giúp cho Nhà nước sẽ có hoạch định tốt hơn. Bởi nếu có số liệu chính xác thì chúng ta có thể dự đoán được nhu cầu về năng lượng cho nền kinh tế trong 1, 2 năm hoặc thậm chí là 5 năm tới để chủ động hơn trong sản xuất, cung ứng và quản lý năng lượng.
Ông Dũng cho hay, việc sửa đổi luật lần này tập trung vào kiểm soát tổn thất năng lượng trong toàn bộ quá trình sản xuất đến tiêu dùng. Bên cạnh việc tăng cường các biện pháp về quản lý thì cũng đưa ra những công cụ mới để hỗ trợ cho việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, chẳng hạn như những công cụ về tài chính, như các Quỹ hỗ trợ sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả - đây là một trong những nội dung mới. Trên nền quỹ này. chúng ta sẽ có công cụ như ESCO, tạo môi trường cho các công ty dịch vụ năng lượng có thể triển khai các nội dung liên quan đến hỗ trợ.
“Dự kiến, khi Quốc hội thông qua luật, trong quỹ hỗ trợ này, các doanh nghiệp chuyển đổi các dây chuyền sản xuất hoặc là sản xuất những phương tiện, thiết bị sẽ có cơ hội tiếp cận những hỗ trợ, chẳng hạn hỗ trợ về kỹ thuật”, ông Dũng nói.
Ở góc độ cơ quan thẩm tra dự án luật lần này, ông Nguyễn Phương Tuấn - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho biết, dự án luật bám sát bốn nhóm chính sách đã đề ra: Chính sách thứ nhất là về nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với vấn đề sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Chính sách thứ hai là về quản lý phát triển đối với các công ty dịch vụ kiểm toán năng lượng hay là về phát triển nguồn nhân lực. Chính sách thứ ba liên quan đến ưu đãi về tài chính, đó là lập Quỹ thúc đẩy phát triển sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Chính sách thứ tư về chuyển đổi thị trường và quản lý hiệu suất, đó là về dán dán nhãn năng lượng.
Trong đó, chính sách thứ hai và thứ ba là những chính sách đáp ứng yêu cầu của thị trường. Phó Chủ nhiệm Nguyễn Phương Tuấn thông tin thêm, giải pháp công ty ESCO đã có quy định ở luật hiện hành, song trong lần sửa đổi luật này đã thể chế hóa, cụ thể hóa ra, bảo đảm tính đồng bộ với hệ thống pháp luật.

Theo ông Võ Quang Lâm - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN): Việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả là một trong các trụ cột quan trọng trong quá trình chuyển dịch năng lượng.“Ngoài việc chuyển đổi xanh, nếu chúng ta sử dụng năng lượng không hiệu quả hơn, không tiết kiệm hơn thì mục tiêu NetZero vào năm 2050 sẽ là một thách thức rất lớn”, ông Lâm nêu rõ.
Chính vì vậy, theo ông Lâm, việc ban hành Luật sửa đổi này là rất kịp thời, đáp ứng được mong mỏi của của doanh nghiệp trong việc có những công cụ, giải pháp, hành lang pháp lý tốt hơn để cùng thực hiện mục tiêu đề ra.
Đặc biệt, khi Bộ Chính trị có Nghị quyết 68-NQ/TW sẽ tạo ra một lực đẩy cho các doanh nghiệp có thể thực hiện các giải pháp tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả trong thời gian sắp tới.
“EVN nhìn thấy rằng đây cũng là một cơ hội để chúng ta có thể cùng chung tay bảo đảm cho việc cung ứng điện và đảm bảo một xã hội phát triển bền vững. Yêu cầu về phát triển bền vững trong giai đoạn sắp tới sẽ là một thách thức, và tất cả các bên đều phải chung tay, chung sức để có thể tham gia được vào quá trình này”, ông Lâm bày tỏ.
Ông Võ Quang Lâm chia sẻ thêm, những năm vừa qua, thực hiện chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả do Thủ tướng Chính phủ ban hành và Chỉ thị số 20/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì việc tiết kiệm điện đã được các địa phương, doanh nghiệp và người dân thực hiện rất tốt. Năm 2024, chúng ta đã tiết kiệm được khoảng 2,64% lượng điện năng tiêu thụ (yêu cầu trong Chỉ thị 20 là 2%), tức là các doanh nghiệp cũng đã thực hiện rất tốt. Một số doanh nghiệp tiêu biểu như Thép Hòa Phát đã có những hệ thống có thể sử dụng được đến 300 - 400 MW về điện. Đây là những kết quả rất tốt và và là những điển hình có tính chất lan tỏa, dẫn dắt tốt trong việc thực hiện chính sách của Đảng và Chính phủ về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.


Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập quốc tế sâu rộng và đặc biệt là đã cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, các nội dung được đề xuất tại dự thảo luật được rà soát như thế nào để phù hợp với các điều ước quốc tế hiện hành mà Việt Nam đang tham gia là thành viên, cũng như hướng đến mục tiêu Net Zero năm 2050.
Làm rõ hơn về vấn đề này, ông Nguyễn Phương Tuấn, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội nhấn mạnh, đây là nội dung khi tiến hành thẩm tra, cơ quan thẩm tra luôn yêu cầu cơ quan chủ trì soạn thảo phải nghiên cứu, rà soát, đánh giá rất kỹ để đáp ứng được tiêu chí, cam kết quốc tế tại Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và COP26, COP27.
“Chúng tôi nhận thấy việc sửa đổi, bổ sung Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả lần này cũng là một cách thức để chúng ta đáp ứng được cam kết đã đặt ra với quốc tế, đó là đạt phát thải ròng về 0 ở năm 2050. Đây cũng là một trong những tiêu chí mà trong lần sửa đổi luật lần này cơ quan soạn thảo đã đưa ra rất nhiều những giải pháp, trong đó chính sách thứ hai và thứ ba như tôi đề cập ở trên là những chính sách mới để đáp ứng tình hình thực tiễn của nước ta cũng như quốc tế”, ông Tuấn nêu.
Cần sớm có cơ chế khuyến khích để tránh bỏ lỡ cơ hội
Trên diễn đàn Quốc hội, thảo luận về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, đại biểu Trần Quốc Tuấn (Đoàn Trà Vinh) cho rằng, việc sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả rất cần thiết, có ý nghĩa chính trị rất quan trọng đối với cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, giảm chi phí xã hội nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong giai đoạn mới.
Đề cập đến phát triển mô hình ESCO - Công ty dịch vụ năng lượng, đại biểu bày tỏ đồng tình việc giao Chính phủ xây dựng cơ chế hỗ trợ phát triển mô hình ESCO, đây là mô hình đôi bên cùng có lợi, bên tiết kiệm thì đỡ tốn tiền điện, bên đầu tư thì có thêm lợi nhuận. Do vậy, theo đại biểu, nếu không sớm có cơ chế khuyến khích thì chúng ta sẽ bỏ lỡ một cơ hội lớn.
Đại biểu dẫn chứng, hiện thế giới có khoảng 25 quốc gia áp dụng thành công mô hình ESCO, xem đây là công cụ thị trường, là trụ cột quan trọng để thúc đẩy chuyển đổi năng lượng. Ở Trung Quốc, qua 24 năm thực hiện hỗ trợ tài chính và miễn thuế (từ 1996 đến 2000), ngành ESCO đã có đến 6.000 doanh nghiệp, tạo ra doanh thu hơn 82 tỷ USD, dẫn đầu toàn cầu và giúp giảm hơn 100 triệu tấn CO2 mỗi năm. Hàn Quốc thì có trên 300 công ty ESCO hoạt động mạnh nhờ Quỹ tiết kiệm năng lượng của Nhà nước. Ở EU và Hoa Kỳ có hợp đồng EPC chuẩn ưu đãi thuế và tín dụng xanh đi kèm kiểm toán độc lập rõ ràng, minh bạch. Còn ở Việt Nam hiện có khoảng 200 doanh nghiệp nhỏ đang hoạt động theo mô hình này, tuy nhiên theo kiểu "mạnh ai nấy làm".
Đại biểu chỉ ra nguyên nhân là do thiếu hỗ trợ tài chính và bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp ESCO vì “doanh nghiệp không thể mua điện bằng niềm tin được”. Bên cạnh đó là thiếu hệ thống đo lường, giám sát độc lập. “Làm rồi mà không đo lường thì chẳng khác nào đi thi mà không cho điểm”, đại biểu nói.
Từ những phân tích trên, đại biểu đề xuất Chính phủ cần quan tâm chỉ đạo khẩn trương thành lập quỹ tín dụng, vì Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả như dự thảo luật quy định cho phép doanh nghiệp ESCO được tiếp cận quỹ này và được bảo lãnh tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh, miễn giảm thuế cho các dự án có hiệu suất cao. Đồng thời, xây dựng bộ tiêu chí đo lường xác minh quốc tế và xã hội hóa hoạt động giám sát, như vậy mới tạo được niềm tin cho thị trường.
“Chúng ta đang sống trong một thế giới không còn nhiều thời gian để trì hoãn, mỗi hành động hôm nay của chúng ta dù nhỏ nhất như việc dán nhãn năng lượng cho vật liệu xây dựng hay thúc đẩy một mô hình mới ESCO đều có thể góp phần cứu lấy môi trường sống ngày mai”, đại biểu nhấn mạnh.

Đại biểu Cầm Thị Mẫn (Đoàn Thanh Hoá) cho rằng, việc bổ sung quy định sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là một chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội quốc gia và của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thể hiện sự chuyển hóa những cam kết chính trị của Việt Nam về năng lượng xanh và phát triển bền vững thành hành động. Điều này cũng cho thấy sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức và hành động về năng lượng.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi, đại biểu đề nghị Chính phủ cần có hướng dẫn rõ ràng về chỉ tiêu, phương pháp đo lường cũng như cơ chế phối hợp giữa Trung ương và địa phương. Theo đó, đề nghị bổ sung thêm quyền của Chính phủ quy định chi tiết khoản này, để trên cơ sở đó xác định tiêu chí đánh giá sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.
Theo đại biểu, dự thảo luật hiện chỉ quy định khuyến khích, hỗ trợ các cơ sở sử dụng năng lượng ký kết thỏa thuận tự nguyện về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả với các cơ quan quản lý Nhà nước mà chưa có tính ràng buộc trách nhiệm. Trên cơ sở đó, đề nghị nghiên cứu theo hướng quy định bắt buộc đối với các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm nhằm nâng cao tính ràng buộc pháp lý và hiệu quả thực thi.
Đối với các cơ quan Nhà nước, đại biểu kiến nghị cần thể hiện theo hướng bắt buộc phải sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả vì các cơ quan này đều sử dụng điện, xăng, dầu mà chi phí cho năng lượng này lấy từ ngân sách Nhà nước.
“Nếu các cơ quan Nhà nước không tiên phong trong sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả thì sẽ không thể động viên, khuyến khích nhân dân, tổ chức xã hội thực hiện được”, đại biểu nói.

Đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh (Đoàn Khánh Hoà), Chủ tịch Liên đoàn luật sư Việt Nam nhận định, trong thực hiện tiết kiệm năng lượng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường gặp khó khăn về nguồn lực tài chính và kỹ thuật để áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng.
Vì vậy, đại biểu đề nghị bổ sung quy định về hỗ trợ ưu đãi cụ thể cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa như: hỗ trợ chi phí kiểm toán năng lượng, tư vấn kỹ thuật miễn phí hoặc giảm lãi suất vay vốn từ quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm.
Cũng theo đại biểu, tại Điều 41 dự thảo luật đề cập đến giảm phát thải khí nhà kính và chuyển đổi công nghệ xanh nhưng chưa có quy định cụ thể về việc hài hòa các tiêu chuẩn quốc tế như Hiệp định Paris hoặc các cam kết COP. Do vậy, cần đồng bộ hóa các quy định quốc tế về chuyển đổi xanh.
“Tôi đề nghị bổ sung điều khoản yêu cầu các cơ quan quản lý như: Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng xây dựng lộ trình cụ thể để đồng bộ hóa các tiêu chuẩn kỹ thuật và định mức năng lượng với các tiêu chuẩn quốc tế. Điều này sẽ giúp Việt Nam đáp ứng cam kết quốc tế và thu hút đầu tư xanh”, đại biểu đề xuất.
Có thể thấy, để hiện thực hóa mục tiêu Net Zero vào năm 2050, Việt Nam không thể thiếu một khung pháp lý hiện đại, đồng bộ và đủ mạnh. Việc sửa đổi và nâng cao hiệu lực của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả chính là một bước đi chiến lược, gắn liền với định hướng phát triển bền vững, kinh tế xanh và hội nhập quốc tế. Luật không chỉ là công cụ điều hành, mà còn là đòn bẩy thúc đẩy sự thay đổi từ nhận thức đến hành động của toàn xã hội trong hành trình tiến tới tương lai không carbon.
Theo chương trình ngày 18/6 tới đây, Quốc hội sẽ thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Sau khi được Quốc hội thông qua, luật được kì vọng sẽ mở ra cánh cửa mới, nâng cao tính thực tiễn, khả thi, hiệu quả, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống luật pháp trong các hoạt động sử dụng năng lượng; giúp Việt Nam kịp thời tận dụng, thu hút và huy động được các nguồn lực quốc tế để hỗ trợ, thúc đẩy thị trường đầu tư tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu Net Zero vào năm 2050.
Tổ chức sản xuất: NAM ĐÔNG
Nội dung: THU HẰNG- MINH TUẤN
Ảnh: BÙI GIANG
Trình bày: KIM THOA