NẾU KHÔNG GHI LẠI, AI SẼ NHỚ HỌ

HỒNG SƠN

Khi bom Mỹ gieo xuống khắp miền bắc, hàng nghìn thanh niên đã bước ra chiến trường. Trong số đó có những người ghi dấu lịch sử bằng ngòi bút và ống kính. Từ giữa rừng sâu của đường mòn Hồ Chí Minh qua chiến hào đỏ lửa Quảng Trị đến những bản làng, vùng cao Quảng Nam rồi tới Sài Gòn, những chàng trai, cô gái tuổi đôi mươi đã tác nghiệp trong khói lửa để có được những di sản vô giá của đời mình.

Đất nước đang cần chúng tôi

19 tuổi, người thanh niên Nguyễn Minh Vỹ đã xa gia đình hành quân thẳng vào chiến trường Quảng Trị với vai trò điện báo viên vô tuyến điện. Đam mê đã biến ông trở thành người kể chuyện bằng hình ảnh.

Cuốc bộ hàng tháng trời, vượt sông Thạch Hãn, đối mặt với sốt rét, đói khát và hiểm nguy rình rập, người cựu chiến binh nhớ lại: “Dép rách, chân phồng rộp, tôi đi bộ qua những con đường mòn đỏ bụi, bom Mỹ rải thảm rung trời, tay ôm chặt chiếc ba-lô có bộ dụng cụ và chiếc máy ảnh, sợ rơi hơn sợ chết”. “Chúng tôi không biết phía trước là gì, chỉ biết rằng đất nước đang cần chúng tôi”, ông Vỹ tự hào.

Dép rách, chân phồng rộp, tôi đi bộ qua những con đường mòn đỏ bụi, bom Mỹ rải thảm rung trời, tay ôm chặt chiếc ba-lô có bộ dụng cụ và chiếc máy ảnh, sợ rơi hơn sợ chết... Chúng tôi không biết phía trước là gì, chỉ biết rằng đất nước đang cần chúng tôi.
Ông Nguyễn Minh Vỹ

Nhớ lại giây phút lên đường, nhà báo Trần Đức Nuôi (nguyên Trưởng Ban Thư ký biên tập, Đài Tiếng nói Việt Nam) cho biết: Đài phát thanh Giải phóng lúc bấy giờ có một nhiệm vụ vô cùng quan trọng, không chỉ để tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, kêu gọi tinh thần đoàn kết mà còn khích lệ tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu của quân và dân Việt Nam qua các bản tin, bài hát cách mạng và các bài phát biểu của chủ tịch Hồ Chí Minh. Hành trang vào chiến trường của tôi là giấy bút và chiếc máy ghi âm R5 to, dài, nặng nề nhưng lý tưởng làm báo và góp phần giải phóng đất nước đã vượt lên tất cả.

Nơi tuyến lửa, Đài vô tuyến điện Quảng Trị là một trong những đài khó khăn và phức tạp nhất. Ăng-ten thường xuyên gãy, đường dây đứt ra hàng trăm đoạn, ngày nào cũng phải nối. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, bộ phận điện đài bị địch bao vây. Đạn pháo bắn trúng đội hình. Đài trưởng Nguyễn Đức Yên và 4 đồng chí hy sinh, 2 đồng chí bị thương nặng, trong đó có ông Vỹ. Nhưng dù còn một người vẫn phải quyết giữ liên lạc với cấp trên.

Chiến sĩ Giải phóng quân đánh chiếm Chi khu quân sự Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị (tháng 2/1973). (Ảnh:  NGUYỄN MINH VỸ)

Chiến sĩ Giải phóng quân đánh chiếm Chi khu quân sự Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị (tháng 2/1973). (Ảnh:  NGUYỄN MINH VỸ)

Cuộc sống ở chiến trường là chuỗi ngày khắc nghiệt. Các chiến sĩ dựng hầm nhỏ dưới gốc cây, ngủ trên nền đất lạnh. Chung quanh, tiếng bom vọng từ xa. “Máy ảnh được bọc trong túi da, phim thì hiếm. Hết phim, tôi cắt nhỏ ra. Tráng phim trong hầm tối, ánh sáng đỏ yếu ớt từ que hương đốt cháy trong điều kiện thiếu thốn”, ông Vỹ kể.

Nhớ lại những ngày tháng tại chiến trường Trị Thiên, nhà báo Trần Đức Nuôi không khỏi xúc động: Là một người con sinh ra tại Quảng Trị, khi vào lại quê hương thấy quá khủng khiếp, hoang tàn, xót xa vô cùng. Khi ấy, chúng tôi không sợ khổ, không sợ chết, chỉ muốn sao đưa được tin về lột tả được hết những gian khổ, những thứ mà các chiến sĩ và những người dân phải gánh chịu. Chính vì vậy, làm phóng viên chiến trường không chỉ có viết mà phải lắng nghe, phải quan sát, phải đặt cái tâm của mình vào mới nói lên được những khát khao, những trân quý của hòa bình.

"Chiến tranh buộc tôi lớn lên"

Nhà báo Kim Anh, nguyên phóng viên chiến trường của Báo Nhân Dân nhớ lại, ngày đó được ra chiến trường là niềm tự hào, dù là phụ nữ. Năm 1973, mới 22 tuổi, vừa tốt nghiệp lớp báo chí do Báo Nhân Dân và Văn phòng Chính phủ tổ chức, bà xung phong vào Đài Phát thanh Giải phóng Khu 5 ở miền núi Quảng Nam. Gia đình biết tin cũng không ngăn cản và nỗi sợ không tồn tại trong tâm trí.

Tác nghiệp nơi trận địa, nhà báo Kim Anh viết về những người lính, sự khốc liệt của chiến tranh, những hy sinh thầm lặng, tình nghĩa đồng bào. Những bản tin, bài viết biên vội trên giấy được đưa giao liên chuyển về cho đài vô tuyến điện để truyền phát. Tin, bài gửi về tòa soạn Báo Nhân Dân ở Hà Nội nhưng phóng viên chẳng thể biết có đến nơi hay không. Chỉ biết thời ấy, các tờ báo Nhân Dân, Quân đội nhân dân, Đài phát thanh Giải phóng kịp thời, đều đặn có thông tin về tình hình chiến sự, góp phần định hướng dư luận ở hậu phương.

Công việc của chúng tôi đầy hiểm nguy. Nhiều đồng đội đã ngã xuống chỉ để lấy được một bản tin. Trên chiến trường, những mối nguy hiểm có thể đến từ bất cứ đâu, không chỉ từ bom rơi đạn nổ, mà cả từ thiên nhiên, bệnh tật, côn trùng nhưng phải giữ được bản lĩnh để hoàn thành nhiệm vụ. Khi đã có tin, việc đưa tín hiệu ra ngoài là cả một hành trình gian nan vì địch thường rải bom ngay khi phát hiện thấy tín hiệu.
Nhà báo Trần Đức Nuôi

Có lần, bà cùng đồng đội hành quân qua một cánh rừng ở Bình Định. Trời đêm tối mịt, mưa lớn, đường trơn, bà trượt ngã không biết bao nhiêu lần. Chiếc đèn pin trong ba-lô do va đập mạnh bất ngờ bật sáng. Trên đồi là ánh đèn từ chốt địch đang rà quét kiểm tra. “Khi đó tôi nghĩ mình sẽ chết. Mình tôi thì không sao, nhưng bên cạnh còn rất nhiều đồng đội”, bà Kim Anh nhớ lại. May thay, khi ấy đồng đội kịp thời che chắn ánh đèn. Một người lính khác buộc một mảnh khăn trắng vào ba-lô để bà có thể bám theo. “Qua vùng địch tôi mới dám thở, rồi bật khóc nức nở, quần áo thì rách hết, người xây xát”, bà bồi hồi nhớ lại. Những giọt nước mắt ấy không chỉ là nỗi sợ, mà còn là sự giải tỏa sau khi vượt qua lằn ranh sinh tử.

“Công việc của chúng tôi đầy hiểm nguy. Nhiều đồng đội đã ngã xuống chỉ để lấy được một bản tin. Trên chiến trường, những mối nguy hiểm có thể đến từ bất cứ đâu, không chỉ từ bom rơi đạn nổ, mà cả từ thiên nhiên, bệnh tật, côn trùng nhưng phải giữ được bản lĩnh để hoàn thành nhiệm vụ. Khi đã có tin, việc đưa tín hiệu ra ngoài là cả một hành trình gian nan vì địch thường rải bom ngay khi phát hiện thấy tín hiệu”, ông Nuôi nhớ lại.

Cựu chiến binh Nguyễn Minh Vỹ, sau 9 năm rưỡi ở Quảng Trị, mang về Hà Nội hàng nghìn bức ảnh. Có 2 bức mà ông nhớ mãi. Một bức chụp cảnh anh lính tranh thủ gặp vợ vài phút ngắn ngủi trước lúc lên đường. Hai tháng sau người lính đó hy sinh. Tiếc rằng tấm đó ông không giữ được. Tấm còn lại ông chụp vào năm 1967 là di ảnh liệt sĩ Nguyễn Văn Cao (hy sinh năm 1971). Đến năm 2011, qua một số thông tin, người nhà liệt sĩ tìm được ông để hỏi xin ảnh của người thân. Trong chiếc hộp cũ, ông tìm được tấm ảnh nhỏ cỡ 4x6 cm, chụp một người lính đang nghe radio. Em gái liệt sĩ Nguyễn Văn Cao đã nhận ra anh trai và xin rước ảnh liệt sĩ lên ban thờ. Thật cảm động và ý nghĩa khi biết thêm rằng, mẹ liệt sĩ Cao cũng được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng khi có chồng và 8 người con là liệt sĩ ở Quảng Trị.

Với những nhà báo chiến trường, một bức ảnh có thể trở thành biểu tượng của chiến thắng. Những bài báo có thể góp phần đổi thay nhận thức của cả một thế hệ. Nhưng để có được những thước phim và dòng chữ ấy, có những con người phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt và nhiều khi là cả máu. “Chiến tranh để lại nhiều nỗi đau! Tôi sống sót, nhưng bao đồng đội đã nằm lại”, ông Vỹ nói, mắt đỏ hoe. Tình đồng chí, tình người nuôi dưỡng họ trải qua khốc liệt, trưởng thành trong hiểm nguy. “Chiến tranh buộc tôi lớn lên”, nhà báo Kim Anh nói “và hàng triệu người khác cũng vậy!”.

Cựu chiến binh Lê Hội sinh năm 1948 tại huế, vào lính thông tin. Một lần bom nổ gần, đất đá văng tung tóe, ông ngã dúi dụi xuống hố, máy ảnh đập vào ngực đau điếng. “Chung quanh mùi máu tanh hòa với mùi khói thuốc súng, đồng đội nằm la liệt. Tôi bò dậy, tay run run chỉnh ống kính, định chụp lại cảnh tượng tàn khốc ấy, nhưng cú va đập đã làm chiếc ống kính vỡ”, ông nói giọng trầm buồn. “Tôi muốn để lại chứng tích cho đời sau. Có lần ở gần khu vực giữa hai chiến tuyến, tôi thấy đồng đội bị thương nặng, máu chảy đỏ đất, tôi cố chụp nhưng trời tối và mưa làm phim ướt hết. Tôi tự nhủ, nếu không ghi lại được, ai sẽ nhớ họ?”.