Nghe ông kể chuyện thời chiến

Cuộc trò chuyện đầu tiên giữa ông và cháu về những ký ức lịch sử không thể quên

Người ta nói quá khứ của cha ông đã qua đi, nhưng với những người trẻ sẵn lòng lắng nghe, quá khứ vẫn luôn hiện diện.

Lần đầu tiên, những người ông từng đi qua bom đạn, sống sót từ những trận đánh ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, có dịp được kể cho con cháu nghe về một thời đạn lửa.

Lần đầu tiên, thế hệ trẻ - những người sống giữa lòng đất nước bình yên, được chạm tay vào lịch sử thông qua chính ông bà mình.

Trong những ngày tháng Tư – khi đất trời như lắng lại để nhắc nhớ một thời gian lao mà hào hùng – tôi gặp một cô giáo trung học đầy tâm huyết. Từ cuộc trò chuyện ấy, chúng tôi lan tỏa một lời kêu gọi giản dị nhưng chạm tới trái tim người trẻ:
“Hướng tới ngày Thống nhất đất nước, các em hãy trở về nhà, ngồi bên ông bà – và bằng một đoạn ghi hình, một bản thu âm, hay chỉ vài dòng ghi chép, hãy trò chuyện về những ký ức thời chiến đang lặng lẽ ngủ quên.”

Theo chân các em trong hành trình trở về ký ức của chính gia đình mình, tôi nhận ra: phần lớn những cuộc đối thoại ấy là lần đầu tiên. Lần đầu các em được nghe ông bà kể chuyện thời chiến – không phải qua trang sách hay lời thầy cô, mà bằng giọng kể chân thực của người thân ruột thịt.

Những người lính năm xưa, sau khi gác lại khẩu súng, rời xa chiến trường, họ trở về sống lặng lẽ trong căn nhà nhỏ giữa thời bình. Các ông ít khi nhắc lại quá khứ, càng hiếm khi chủ động kể về một thời bom đạn tưởng chừng chỉ còn trong sử sách. Nay, cũng là lần đầu tiên họ ngồi lâu đến vậy bên các cháu – và mở lòng, kể ra những điều tưởng đã chôn sâu mãi mãi trong ký ức.

“Đây là lần đầu tiên cháu được nghe ông kể chuyện thời chiến…”
– Em Nguyễn Đặng Khánh Lâm, 16 tuổi
“Cháu thật sự bất ngờ… Cháu chưa từng hình dung, tuổi 18 của ông lại có thể khốc liệt đến thế”.
- Em Phùng Minh Đức, 21 tuổi

1. Người ông can trường trong mưa bom bão đạn

Hai ông cháu bước chậm trong con ngõ nhỏ, nắng tháng Tư rót vàng trên vai. Từng kỷ niệm cũ – những trận đánh, những cận kề sinh tử, cả những nỗi day dứt không lời – lặng lẽ hiện về, như thể mỗi bước chân là một trang sử đang mở ra trước mắt.

Cựu chiến binh Phùng Thế Duy, quê ở xã Hòa Xá (Ứng Hòa, Hà Tây cũ), nhập ngũ năm 1968. Ông là xạ thủ B41, thuộc tiểu đội hỏa lực, lực lượng vũ trang mặt trận miền nam Tây Nguyên, từng chiến đấu ở các mặt trận khốc liệt, nhiều lần đối diện tử thần trong gang tấc. Ông được trao tặng nhiều Huân, Huy chương Kháng chiến và danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ.

Cháu ông Duy, Phùng Minh Đức, sinh năm 2004, là dân quân tự vệ phường Văn Chương, Đống Đa, Hà Nội.

Trong căn nhà nhỏ nép mình giữa con ngõ yên ả, ông Phùng Thế Duy cẩn thận sắp xếp những chiếc bằng khen, những kỷ vật thời chiến trên chiếc bàn trà. Mỗi món đồ, mỗi tấm bằng khen là một lát cắt ký ức mà ông gìn giữ bấy lâu.

Ông Duy từng 7 lần bắn hạ tăng, 7 lần diệt cơ giới địch

Ông Duy từng 7 lần bắn hạ tăng, 7 lần diệt cơ giới địch

Em Đức ngồi bên ông nội, mắt dõi theo từng cử chỉ, lắng nghe không rời từng câu chuyện của ông – những mảnh ký ức chiến tranh đang sống lại qua giọng kể trầm ấm, đôi lúc ngắt quãng vì xúc động.

Lâu lắm mới gặp cháu nội từ xa về, ông Duy vui ra mặt. Ông lần giở từng tấm bằng khen, giấy đã ố vàng nhưng niềm tự hào vẫn nguyên vẹn.

“Đây là bằng khen ông tiêu diệt 2 tăng này…”

“Tấm này là ông tiêu diệt 2 tăng nữa này…”

 “Có những tấm, tiếc lắm, nhưng có lần suýt bị địch phát hiện, ông phải nuốt để giữ bí mật…”

Ông Duy kể về một lần suýt bị địch phát hiện

Ông Duy kể về một lần suýt bị địch phát hiện

Ông Duy từng là xạ thủ B41 (Ảnh minh họa)

Ông Duy từng là xạ thủ B41 (Ảnh minh họa)

Đức nâng niu đón lấy từng tấm bằng, xem thật kỹ, như cùng ông trở về quá khứ. Cậu không chỉ nhìn một tờ giấy, mà đang nhìn thấy cả một quá khứ hào hùng hiện lên qua ánh mắt, giọng nói và ký ức của ông nội mình.

Hào hùng, nhưng cũng để lại những vết thương nặng nề, sâu hoắm.

Cái cháu nhìn thấy là một vết sẹo. Nhưng với ông, đó là dấu tích của một thời không thể quên.

“Mảnh pháo nó cắm vào đây này”.

Ông Duy chậm rãi đưa tay xuống vén ống quần, để lộ một bàn chân phải biến dạng với vết sẹo dài phủ cổ chân. Ngón cái cong lên, các ngón còn lại cũng cong vẹo như vừa trải qua một cơn chấn động dữ dội. “Mảnh pháo xuyên qua cổ chân, làm đứt gân ở ngón cái. Rồi ông phải trải qua phẫu thuật. Phải cắt da đùi để ghép xuống chân. Nhưng từ ấy cũng không đi thẳng người lên được".

Đức lặng người nhìn vết sẹo. Em chưa từng biết tới câu chuyện phía sau.

Đó là dấu tích từ một trận đánh cam go, mưa bom bão đạn.

Ngày 13/6/1969, tiểu đoàn của ông Duy nhận nhiệm vụ đánh quấy rối tại khu vực đèo Mang Yang – khu vực huyết mạch trên quốc lộ 19. Đơn vị len lỏi giữa địa hình hiểm trở để phục kích đoàn xe địch. Trạm trinh sát thông báo: Đoàn xe kéo dài gần 300 chiếc, gồm cả xe chở lính, xe tăng M-113, xe chở vũ khí, đạn dược, và có cả xe chở dân thường được cài răng lược để ngăn ta tấn công.

Theo đúng kế hoạch, ông Duy cùng đồng đội đợi lệnh từ đài quan sát—ba tiếng “cạch” làm tín hiệu khai hỏa. Ông bắn B41 vào đoàn xe, rồi cả tổ nhanh chóng rút quân về điểm tập kết.

Đoàn xe địch lập tức nã pháo dữ dội.

Một quả pháo nổ gần, để lại cho ông di chứng suốt đời.

Ông Duy kể, hôm ấy ông cùng đánh trận với ông Lung, ông Đính—những người đồng đội thân thiết suốt một thời tuổi trẻ. Giờ thì không còn ai nữa.

Vết sẹo trên chân ông đã trở thành dấu tích cuối cùng còn sót lại của ký ức ấy — về những người đồng đội sát cánh bên nhau trong đạn bom, sinh tử.

-KHO GẠO HÓA THÀNH KHO XĂNG-

“Lúc ấy tình báo báo là kho gạo. Nhưng hóa ra là kho xăng. Nó bốc cháy một cái là trời rung đất chuyển”.

Gia Lai, tháng 4 năm 1970. Giữa cao điểm chiến sự tại chiến trường Tây Nguyên, ông Duy cùng đồng đội là ông Quý, trung đội trưởng, mũi trưởng mũi tấn công – nhận nhiệm vụ đánh phá một cứ điểm hậu cần của địch tại ấp Suối Đôi, dọc đường 19, hướng từ Pleiku đi An Khê.

Theo lời kể của ông Duy, tổ chiến đấu hai người nhận chỉ thị từ tình báo: tiêu diệt hai mục tiêu – một lô cốt và một kho gạo tiếp tế cho quân địch.

“Ông mang quả thủ pháo 5kg, dài gần một mét. Nhiệm vụ là áp sát lô cốt, đặt thuốc nổ vào chân công sự, giật chốt xong rút. Rồi chuyển sang kho gạo – mà hóa ra là kho xăng đấy. Xong nhiệm vụ là rút”. Ông Duy nhớ lại, ánh mắt can trường nhìn về trận đánh đã trôi qua hàng chục năm.

Trận địa khi ấy chỉ cách địch khoảng 30–40 mét. Không ai ngờ, kho gạo trong báo cáo trinh sát lại là kho xăng. Thủ pháo vừa ném vào, ngọn lửa bùng lên dữ dội, hai cột lửa cao ngút trời như muốn nuốt chửng cả núi rừng.

Đồng đội hét: "Người cháy rồi! Lăn đi!"

“Thế là cả hai ông lăn. Lăn mấy vòng liền thì ngọn lửa mới chịu tắt”. Lửa bám vào chân trái, tay trái, rồi liếm lên đến toàn bộ lưng. Rát bỏng, đau đớn.

Rát quá ông định nhảy xuống suối, nhưng đồng đội ngăn lại, bảo: "Nước lột da ra là chết!"

Rát quá ông định nhảy xuống suối, nhưng đồng đội ngăn lại, bảo: "Nước lột da ra là chết!"

Dù bị bỏng toàn thân, hai người vẫn phải rút về điểm tập kết qua một bãi cỏ tranh. Rừng núi Tây Nguyên khi ấy nhá nhem, dày đặc, đường rút lui không rõ ràng, không thể liên lạc được với đơn vị.

Họ lạc đường.

Trong suốt một tuần lang thang giữa núi rừng khắc nghiệt, không nước sạch, không thuốc men, từng bước đi là từng lần da thịt như bị xé toạc – vì vết bỏng rỉ dịch, sưng tấy và nhiễm trùng nặng.

“Từ lúc bị thương tới lúc đi bộ về điểm tập kết mất hẳn 1 tuần. Ông vẫn phải khoác áo, cắn răng mà bước tiếp”. Ông Duy nhớ lại.

Khi về đến nơi, ông giật mình nhìn vết bỏng của ông Quý thốt lên: “Chết rồi, có dòi rồi!

7 ngày ở trong gian nhà lá của trạm xá giữa đại ngàn, là 7 ngày hằn sâu vào trí nhớ.

Trong điều kiện rừng núi nóng ẩm, thiếu thuốc sát trùng, vết thương dễ nhiễm trùng vì phải tiếp xúc với lá cây mục, đất ẩm và cả ruồi nhặng. Bác sĩ phải gắp từng con dòi từ mô thịt hoại tử trên lưng ông Quý. Còn ông Duy, lưng phồng rộp một ụ bỏng lớn, đau rát đến mức không thể nằm ngửa suốt nhiều ngày.

Những ký ức ấy in hằn đến tận bây giờ. Nhưng người đồng đội cùng ông đi qua tháng ngày sinh tử ấy – giờ đây cũng đã không còn nữa...

“Rút phải dòi thì không sao. Rút trúng thịt thì ôi giời ơi, điếng người. Có hôm không được con nào, có hôm được một, hai con”.

“Rút phải dòi thì không sao. Rút trúng thịt thì ôi giời ơi, điếng người. Có hôm không được con nào, có hôm được một, hai con”.

Ông cười, nụ cười chậm rãi, bình thản đến lạ. Như thể những đau đớn, mất mát ấy chỉ là chuyện của một kiếp trước.

Nhưng trong giọng kể của ông, có những thứ vẫn nguyên vẹn – không phải là thịt da, mà là ký ức của một thời khốc liệt không thể nào quên.

"Đau đến mấy, ông vẫn tiến lên phía trước".

2. Người ông bền bỉ vượt dãy Trường Sơn

Các cán bộ, chiến sĩ vượt núi, băng rừng Trường Sơn tiến vào miền Nam. Ảnh: HTTL

Các cán bộ, chiến sĩ vượt núi, băng rừng Trường Sơn tiến vào miền Nam. Ảnh: HTTL

Các cán bộ, chiến sĩ vượt núi, băng rừng Trường Sơn tiến vào miền Nam. Ảnh: HTTL

Các cán bộ, chiến sĩ vượt núi, băng rừng Trường Sơn tiến vào miền Nam. Ảnh: HTTL

Bản đồ Hệ thống đường ống đầu năm 1970 trên đường Trường Sơn. Ảnh: HTTL

Bản đồ Hệ thống đường ống đầu năm 1970 trên đường Trường Sơn. Ảnh: HTTL

Nếu ông Duy là một người lính pháo từng ‘đấu trực diện với tăng địch”, thì ở tuyến đường Trường Sơn, có những chàng trai như Đặng Xuân Học năm 18 tuổi– lặng lẽ, âm thầm lái xe, gùi gạo, bám rừng giữ tuyến.

Hà Tây, tháng 7/1968. Không khí kháng chiến sục sôi. Những thanh niên học sinh vừa tốt nghiệp lớp 10 (tương đương lớp 12 bây giờ), vở viết chưa kịp ráo mực, đã nối gót nhau ra trận. Ông Đặng Xuân Học – khi đó mới 18 tuổi – là một trong số hàng vạn thanh niên lên đường nhập ngũ đúng vào ngày 14/7/1968.

Lý tưởng và khát vọng hòa bình đã dẫn dắt ông đi qua gần 10 năm trong quân ngũ – từ một cậu lính gùi gạo, gùi đường ống dầu cho đến người lính lái xe băng rừng Trường Sơn, chở hàng hóa tiếp tế cho tiền tuyến.

Gùi từng bao gạo 40kg, gùi từng mét ống dẫn xăng xuyên rừng – những đôi chân tuổi đôi mươi đi ròng rã suốt ba tháng, băng qua mọi hiểm nguy. "Đêm đi, ngày nghỉ. Tinh thần ai nấy đều hừng hực. Mọi người động viên nhau bằng một khẩu hiệu in ngay trên mũ: “Đi bằng đầu, không phải bằng chân.”
Chân có thể mỏi rã rời – nhưng đầu thì luôn hướng về phía trước".

Ông Học kể lại với thái độ điềm đạm, nhưng trong giọng nói vẫn ánh lên vẻ hào sảng của một thời tuổi trẻ rực lửa. Mỗi chi tiết được ông nhắc lại như vừa mới xảy ra hôm qua, dù đã trôi qua hơn nửa thế kỷ. Những khó khăn gian khổ, những bước chân gùi gạo vượt rừng vượt suối, với ông không phải là nỗi khổ – mà là ký ức của một thời sống trọn vẹn với lý tưởng.

Sau gùi gạo là gùi ống dẫn dầu – loại đường ống được kéo từ Hải Phòng, xuyên rừng vào chiến trường miền Nam để chuyển xăng dầu. Những cuộn ống sắt nặng nề, trơn trượt trong rừng ẩm ướt, phải men theo các triền núi dốc đứng, nhưng chưa một ai lùi bước. Với ông Học, "gian khổ nhiều vô kể, nhưng chí thanh niên, lại có lòng yêu nước nồng nàn nên vượt qua hết ".

Năm 1971, ông Học được điều về Sư đoàn 470, học lái xe vận tải.

Chỉ sau 3 tháng huấn luyện, ông chính thức trở thành người lính lái xe Trường Sơn – một trong những nhiệm vụ nguy hiểm và khốc liệt nhất thời chiến.

"Lái xe giữa Trường Sơn là làm bạn với cái chết từng ngày".


Đường Trường Sơn – tuyến chi viện chiến lược xuyên suốt Bắc – Nam – không chỉ là đường mòn mà là hệ thống hậu cần sống còn của cả cuộc kháng chiến.

Vận chuyển hàng hóa trên tuyến Trường Sơn, những người lính lái xe như ông Học phải vượt địa hình hiểm trở, đèo cao, suối sâu giữa mưa bom, bão đạn và chất độc hóa học rải khắp rừng núi. Những chiếc xe vận tải lớn là mục tiêu dễ dàng của máy bay AC-130. "Các chiến sĩ lái xe của chúng ta hy sinh rất nhiều, đơn vị phải tuyển quân liên tục". Chưa kể các chiến sĩ còn làm nhiệm vụ mở đường, xe đi xuyên rừng cây mới không bị địch phát hiện, thì phải vượt qua rừng Trường Sơn trùng trùng điệp điệp, nơi rừng thiêng nước độc với muỗi với vắt, bệnh tật sốt rét...".

“Trường Sơn không chỉ có đạn pháo. Có cả đói rét, bệnh sốt rét, và nỗi cô độc khi đồng đội ngã xuống."

“Trường Sơn không chỉ có đạn pháo. Có cả đói rét, bệnh sốt rét, và nỗi cô độc khi đồng đội ngã xuống."

"Ai đi bộ đội Trường Sơn mà chưa bị sốt rét thì chưa được gọi là bộ đội Trường Sơn".

Ông Đặng Xuân Học cháu trai - Nguyễn Đặng Khánh Lâm, sinh năm 2009, học sinh lớp 10 trường phổ thông liên cấp Alfred Nobel

Ông Đặng Xuân Học cháu trai - Nguyễn Đặng Khánh Lâm, sinh năm 2009, học sinh lớp 10 trường phổ thông liên cấp Alfred Nobel

Lời ông như một mũi kim xuyên qua lớp vỏ vô tư của Lâm. Trước giờ em chỉ biết ông từng đi bộ đội – là cầm súng lao ra trực diện với địch. Nhưng giờ em hiểu thêm rằng, yêu nước - còn là những công tác hậu cần tiếp tế vô cùng quan trọng cho mặt trận tiền tuyến.

Người ông từng xông pha Trường Sơn năm nào bồi hồi nhìn đứa cháu trai – giờ đã là một thiếu niên – như nhìn vào một tấm gương phản chiếu thời gian.

“Đây là lần đầu tiên cháu nó ngồi chăm chú nghe ông kể chuyện đấy". Ông Học bật cười, giọng vừa xúc động vừa bùi ngùi. “Cháu nó còn bận học, cũng chỉ cuối tuần nó mới về thôi. Thế là lần đầu tiên, hai ông cháu có một cuộc nói chuyện tử tế”.

“Em nó giờ cũng lớn rồi, cũng cần biết thêm về thế hệ ông cha đã gây dựng, bảo vệ đất nước như thế nào”.

3. Kể lại lịch sử - trao truyền lại giá trị của thế hệ cha ông

Ký ức chiến tranh đối với những cựu binh như ông Duy hay ông Học không phải là thứ có thể dễ dàng kể lại. Nhiều câu chuyện được họ giấu kín hàng chục năm, đến nay mới lần đầu chia sẻ.

 “Nỗi đau lớn nhất của ông, không phải nỗi đau trên da thịt”

“Người ta bảo miếng ăn nhớ lâu, đòn đau nhớ mãi. Mà ông thấy cái đau nhất, lại chẳng phải nằm trên da thịt”.

Giọng ông Duy nhỏ lại, ánh mắt trầm xuống như đọng nước. Giữa những dòng hồi ức của một đời quân ngũ, có một vết thương mà ông chưa bao giờ nguôi ngoai – không phải mảnh đạn, cũng chẳng phải vết bỏng, mà là cái tát của một người anh trai nóng nảy dành cho em gái mình năm xưa.

“Hồi ấy hai anh em còn nhỏ, còn trẻ con, mà tính ông thì cục, còn cô em thì hay cãi ngang. Một lần, không kiềm được nóng giận, ông tát cô một cái. Chỉ một cái thôi. Nhưng cả đời ông không quên được”.

Năm 1973, ông Duy ra quân. Những cũng tháng 8 năm ấy, cô em gái – người năm xưa bị ông đánh trong cơn giận – đã nhập ngũ, và không bao giờ trở về nữa.

Trước lúc mở màn chiến dịch Tổng tấn công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975, cô hy sinh ở mặt trận Thừa Thiên Huế.

“Cứ thế, mỗi người một ngả. Đến khi ông biết tin cô hy sinh , ông lặng người. Cái tát ấy, nó như in vào lòng, không thể nguôi ngoai...”

Cái vả của mình, không phải như tát thường đâu. Nó là cái vả bằng khớp tay, đau lắm. Mà người ta đau không chỉ là thân thể, mà còn đau lòng.” Ông kể, ánh mắt chùng xuống.

Câu chuyện thầm lặng ấy, nay - sau 50 năm - trở thành điều ông dặn dò con cháu. Không phải là câu chuyện về chiến trận hay lòng dũng cảm, mà là bài học về sự kiềm chế, về những điều đã nói, đã làm – không thể rút lại.

“Lời nói ra rồi, tay đưa ra rồi, không lấy lại được đâu cháu ạ. Nên ông mong cháu, trước khi làm gì hay nói gì, phải nghĩ cho kỹ. Người ta bảo ‘miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ mãi’. Nhưng đôi khi, chính người đánh - mới là người nhớ mãi".

"Ân hận đó, nó ăn vào người như lửa âm ỉ. Nó không biến mất đâu cháu ạ”.

Đức nhìn vào đôi mắt hoe đỏ của ông, lòng trào lên nỗi xót xa.

Ngọn lửa thiêu đốt lưng ông năm ấy, có lẽ, còn không cháy bỏng bằng nỗi ân hận dành cho người em gái suốt 50 năm qua.

Năm nay, tròn 50 năm đất nước thống nhất, cũng là 50 năm ngày cô hy sinh. Ông bảo, phải làm giỗ thật chu đáo.

“Không làm tròn cái đó thì ông không yên lòng...”

Trở về sau chiến tranh, nhưng họ không trở lại một mình.

Trong tim ông Duy là nỗi day dứt về người em gái đã ngã xuống.

Còn ông Học, vẫn mang theo ký ức về những đồng đội đã nằm lại Trường Sơn.

Ngày 30/4/1975 – đất nước thống nhất – ông Học cùng đồng đội bật khóc trong vui sướng.

“Không phải chỉ ông đâu, cả nước khóc. Cái cảm giác đất nước yên bình trở lại, không còn tiếng súng... như thơ Tố Hữu từng viết:

‘Hôm nay vui đến, ngỡ trong mơ
Một trời êm ả, xanh không tưởng
Mặt đất bình yên giấc trẻ thơ.’

Đến giờ phút này khi hồi tưởng lại ông vẫn còn rất xúc động và nhớ như in cái cảm giác vui sướng hân hoan ấy, vì cho đến cùng, chẳng ai muốn chiến tranh. Nhưng ông cũng thương những người đồng đội cũ – kẻ còn người mất. Một là vì tuổi tác bệnh tật, hai là có người đã hy sinh mà chính ông cũng đã tự tay chôn cất đồng đội trong những năm tháng chiến đấu ác liệt ấy.

“Có những nấm mộ ông tự tay đắp, những cái tên ông nhớ mãi không quên. Những người lính Trường Sơn sống sót tới hôm nay, như ông, đều coi đó là một may mắn hiếm hoi. Và trách nhiệm kể lại – để không một ký ức nào bị lãng quên – cũng từ đó mà ra”.
Ông Đặng Xuân Học

Những đau đớn ấy, không phải ai cũng hiểu. Nhưng họ kể lại, để thế hệ sau hiểu rằng: chiến tranh là mất mát, và hòa bình là điều thiêng liêng nhất.

Ký ức ông bà không chỉ là chuyện riêng, mà là một phần lịch sử đất nước. Nếu em không ghi lại, sau này chẳng còn ai để hỏi”. — Em Bùi Tuấn Hưng, 20 tuổi

Và còn nhiều - nhiều bạn trẻ khác đã chủ động tìm hiểu lịch sử thông qua lời kể của ông bà. Các em ghi âm, dựng clip, làm podcast lưu giữ ký ức chiến tranh từ người thân. Đó không chỉ là cách tri ân thế hệ đi trước, mà còn là cách để kết nối quá khứ với hiện tại, đưa lịch sử ra khỏi khung sách và thổi vào đó hơi thở của tình thân, của ký ức cá nhân.

Những người ông kể lại với thái độ điềm đạm, không tô hồng quá khứ, nhưng trong giọng nói vẫn ánh lên vẻ hào sảng của một thời tuổi trẻ rực lửa. Những khó khăn gian khổ, những hiểm nguy gang tấc, với các ông không phải là nỗi khổ – mà là ký ức của một thời sống trọn vẹn với lý tưởng.

Đó cũng là khoảnh khắc mà thế hệ cháu con lần đầu nhận ra: người ông từng lặng lẽ ngồi bên ấm trà mỗi ngày, hóa ra đã từng đi qua biết bao hiểm nguy sinh tử vì đất nước.

"Ngày xưa tụi ông học Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt mà đứng lên vì non sông.

Bây giờ các cháu cũng phải học từ thế hệ đi trước – cả những người còn sống và những người đã ngã xuống.

Không phải để cầm súng, mà để biến thành tri thức, thành hành động – vì đất nước, và vì chính các cháu”.

Ông Học hy vọng qua những cuộc trò chuyện như thế này, không chỉ cháu của ông, mà cả những người trẻ khác cũng có thể bắt đầu hành trình tìm hiểu và biết ơn.
“Thời đại bây giờ thay đổi rồi, nhưng không được quên quá khứ.
Phải nhớ truyền thống dân tộc – những bài học cha ông để lại bằng máu xương. Cả một thế hệ đã hy sinh xương máu, mới có ngày hôm nay để các cháu được đi học, được sống yên bình. Sợ nhất là các cháu quên đi điều đó".
Ông Học không giấu nỗi xúc động khi nói về nỗi trăn trở của mình.
Ông Duy dặn cháu phải có ý chí vươn lên. Thứ mình đang có hôm nay, chưa chắc đã là đủ – có thể chỉ là tạm thời.
“Thời đại công nghệ thay đổi từng ngày. Cái cháu học hôm nay, mai đã lạc hậu. Nếu không học hỏi liên tục, sẽ bị bỏ lại phía sau. Thế hệ cháu có điều kiện hơn tụi ông ngày xưa – thì càng phải cố gắng hơn. Không chỉ cho bản thân, mà còn cho gia đình, cho xã hội, cho những người xung quanh".
- Ông Duy nhắc cháu trai, giọng chậm rãi mà kiên quyết
Cựu chiến binh Binh chủng Phòng không - Không quân Đặng Văn Tác nhắn nhủ cháu về một quá khứ không ngừng nỗ lực.
“Tuổi thanh xuân ông buông cây bút, cầm súng đứng lên bảo vệ đất nước. Trở về, ông tiếp tục đi học cùng lớp đàn em, học ngày học đêm và không ngừng cố gắng để thực hiện ước mơ của mình, cố gắng vượt qua mọi khó khăn”.
Cựu chiến binh Đặng Văn Tác
Ký ức không chỉ để nhớ, mà còn để hành động.
Những câu chuyện của ông bà không phải để kể lại rồi quên đi, mà là để thế hệ trẻ tìm thấy chính mình trong đó.
Khánh Lâm quyết định không chần chừ nữa – cậu sẽ dấn thân, sẽ thử sức, sẽ sống với tinh thần mà ông đã truyền lại.
“Ông kể rằng khi đó đối với ông cái chết không đáng sợ mà lại nhẹ tựa lông hồng khi hy sinh vì đất nước. Vì có một thế hệ quên mình như vậy, mà cháu có cuộc sống yên bình như bây giờ. Cháu tự hào và biết ơn ông”.
– Em Khánh Lâm, 16 tuổi
Vốn đang gặp phải những khúc mắc trong cuộc sống, giờ đây, Minh Đức không còn thấy trước mắt đầy trở ngại nữa.
Những gì ông chia sẻ khiến cháu nhận ra rằng: sống trong thời bình không có nghĩa là không cần đến tinh thần chiến đấu, mà là phải chiến đấu bằng cách khác – bằng tri thức, sự nỗ lực và tinh thần vượt lên chính mình”.
Em Minh Đức, 21 tuổi
Ý chí bền bỉ theo đuổi ước mơ, không bỏ cuộc của ông sẽ luôn là nguồn động lực âm thầm nhưng mãnh liệt với Đặng Thị Thúy Anh.
“Cháu là con gái, sức chiến đấu có thể không như con trai, nhưng cháu sẽ chiến đấu và phục vụ đất nước theo cách của mình”.
Em Thúy Anh, 15 tuổi

Ký ức chiến tranh, khi được kể lại, không còn là những câu chuyện khô cứng trong sách vở. Đó là hơi thở, là cảm xúc, là giọt nước mắt và cả nụ cười của những người đã sống, đã chứng kiến và đã hy sinh.

Ngồi cùng ông bà, lắng nghe, ghi nhớ – đó là cách mà thế hệ trẻ hôm nay giữ gìn lịch sử. Không để quá khứ trôi vào lãng quên, mà để nó trở thành ánh sáng soi đường, để mỗi bước chân của người trẻ trong thời bình thêm vững vàng, khối óc và trái tim thêm mạnh mẽ, quả cảm.

Hòa bình – Là một lời nhắc nhở

Lịch sử nối tương lai – Xuyên suốt một hành trình

Các ông từng ra trận, chẳng biết ngày mai có còn trở về.

Các cháu –những người trẻ lớn lên trong hòa bình mơ ước – còn chần chừ gì mà không tiến lên phía trước?

Ngày xuất bản: 4/2025
Chỉ đạo: Trường Sơn - Hồng Minh - Duy Hưng
Nội dung và trình bày: Mỹ Linh
Video, ảnh: Hồng Quân - Nhân vật cung cấp