
Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 đặt mục tiêu đến 2030 có 2 triệu doanh nghiệp, 20 doanh nghiệp lớn toàn cầu. Để đạt mục tiêu trên, Việt Nam cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Phóng viên Báo Nhân Dân đã có cuộc trao đổi với Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Ngọc Tiến, Phó Hiệu trưởng Trường đại học Ngoại thương về vấn đề này.

Phóng viên: Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW về Phát triển Kinh tế tư nhân, có đề cập đến các vấn đề về nguồn lực. Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Ngọc Tiến, nguồn nhân lực có vai trò như thế nào trong sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân hiện nay?
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Ngọc Tiến: Phát triển kinh tế tư nhân là một trong bộ tứ chiến lược để thực hiện mục tiêu tăng trưởng hai con số trong kỷ nguyên vươn mình của Việt Nam. Nghị quyết 68-NQ/TW không chỉ loại bỏ thủ tục trong việc thành lập, xây dựng cơ chế bảo vệ doanh nghiệp mà quan trọng không kém là tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn lực cần thiết cho phát triển doanh nghiệp, bao gồm các nguồn lực về vốn, công nghệ và quan trọng nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đối với Việt Nam, có thể nói việc tiếp cận các nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định đối với mục tiêu có được 2 triệu doanh nghiệp tư nhân vào năm 2030, trong đó bao gồm việc “chính thức hóa” hay chuyển đổi hộ kinh doanh thành các doanh nghiệp tư nhân.
Hiện nay, chúng ta có khoảng 5 triệu hộ kinh doanh và nếu có thể chuyển đổi 20% số hộ kinh doanh thành doanh nghiệp tư nhân thì chúng ra đã có 1 triệu doanh nghiệp tư nhân. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan từ cơ chế, chính sách thì nguyên nhân chủ quan từ chính các hộ kinh doanh là một rào cản, thách thức lớn.
Phần lớn hộ kinh doanh có thói quen kinh doanh dựa trên mối quan hệ, quản lý dựa trên kinh nghiệm, chưa am hiểu thị trường. Do đó, cần đột phá giải quyết được thách thức này để tạo ra xung lực và nền tảng vững chắc cho việc chuyển đổi doanh nghiệp.
Việt Nam có khoảng 5 triệu hộ kinh doanh, có thể chuyển đổi một phần thành doanh nghiệp.
Việt Nam có khoảng 5 triệu hộ kinh doanh, có thể chuyển đổi một phần thành doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, việc hình thành doanh nghiệp mới, khởi nghiệp cũng đang gặp phải những hạn chế từ chính nguồn nhân lực. Với rất nhiều chương trình hỗ trợ khởi nghiệp của các bộ, ngành và địa phương, có thể nói chúng ta đã bước đầu hình thành được các hệ sinh thái khởi nghiệp, phát triển được nền tảng và ý định khởi nghiệp trong thanh niên, sinh viên. Tuy nhiên, sự trì hoãn khởi nghiệp, yếu tố cản trở việc chuyển từ ý định thành quyết định khởi nghiệp đang là cản trở lớn và cũng xuất phát từ chính yếu tố nguồn nhân lực.
Ngoài ra, không thể không nói đến đòi hỏi của nguồn nhân lực trong việc phát triển quy mô và sự hội nhập của các doanh nghiệp. Để có được 20 doanh nghiệp lớn tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, để gia tăng tỷ lệ các doanh nghiệp lớn (hiện chỉ chiếm dưới 10% số doanh nghiệp tư nhân) thì nhu cầu nguồn nhân lực chuyên nghiệp, chất lượng ở mọi vị trí, cấp độ là điều kiện quyết định.
Nói tóm lại, nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến mọi kênh hình thành của doanh nghiệp tư nhân, từ doanh nghiệp khởi nghiệp đến doanh nghiệp chuyển đổi từ hộ kinh doanh cũng như sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân.
Việt Nam hướng đến phát triển 20 doanh nghiệp lớn tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Ảnh: THÀNH ĐẠT
Việt Nam hướng đến phát triển 20 doanh nghiệp lớn tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Ảnh: THÀNH ĐẠT
Phóng viên: Nghị quyết 68-NQ/TW đã đưa ra một số nhiệm vụ, giải pháp, trong đó có nêu: “Đổi mới phương thức đánh giá tốt nghiệp có sự tham gia của doanh nghiệp”. Đại diện cho một trường đại học lớn của Việt Nam, Phó Giáo sư cho biết doanh nghiệp sẽ được khuyến khích tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực bằng những cách nào? Vai trò của doanh nghiệp trong việc đánh giá, công nhận tốt nghiệp là gì?

"Có lẽ cần khẳng định sự tham gia của doanh nghiệp vào đánh giá tốt nghiệp nói riêng và quá trình đào tạo nói chung cần được coi là sự hợp tác win-win để cùng nhau cung cấp và sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng cho sự phát triển của quốc gia".
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Ngọc Tiến
Phó Hiệu trưởng Trường đại học Ngoại thương
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Ngọc Tiến: Nếu coi sinh viên tốt nghiệp là sản phẩm được cung cấp cho thị trường lao động thì doanh nghiệp chính là những người sử dụng sản phẩm đó. Như vậy, chính người sử dụng sẽ là người trả lời chính xác nhất cho câu hỏi sản phẩm có đáp ứng nhu cầu hay không.
Do đó, Nghị quyết 68-NQ/TW đã đưa ra một giải pháp định hướng quan trọng để doanh nghiệp tham gia vào đánh giá tốt nghiệp nói riêng và vào quá trình đào tạo nói chung. Trên thực tế, vấn đề này không phải chưa từng được đề cập đến khi vấn đề hợp tác nhà trường-doanh nghiệp đã được đề cập đến từ lâu trong các nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước và của nhiều cơ sở giáo dục. Tuy nhiên, dường như nó chưa được thực hiện một cách toàn diện và hiệu quả.
Từ kinh nghiệm của Trường đại học Ngoại thương, tôi cho rằng sự tham gia của doanh nghiệp phải được thực hiện một cách thực chất và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình đào tạo và đánh giá tốt nghiệp chỉ là điểm quyết định. Trước hết, doanh nghiệp cần tham gia vào việc “định chuẩn” theo chương trình đào tạo ở Việt Nam hiện nay, đó là định chuẩn đầu ra.
Do đó, điểm đầu tiên và quan trọng nhất là chuẩn đầu ra phải được xác định đúng với yêu cầu thực tiễn của các doanh nghiệp. Mặc dù hiện nay, việc doanh nghiệp tham gia góp ý vào chương trình đào tạo đã được thực hiện nhưng cần có một cách thức triển khai hiệu quả bảo đảm tính đại diện và hiệu quả hơn. Việc này có thể được thực hiện thông qua cơ chế hiệp hội nghề nghiệp hoặc các doanh nghiệp lớn có vai trò quyết định hơn đối với các chuẩn chương trình đào tạo đang được xây dựng.
Nhà trường và doanh nghiệp cùng tham gia vào quá trình đào tạo và đánh giá tốt nghiệp đối với sinh viên.
Nhà trường và doanh nghiệp cùng tham gia vào quá trình đào tạo và đánh giá tốt nghiệp đối với sinh viên.
Tiếp theo, trong quá trình đào tạo, các doanh nghiệp cũng cần tham gia vào quá trình đào tạo để bảo đảm các chuẩn đó được chuyển tải một cách chính xác nhất đến các bên liên quan, đảm bảo các hoạt động dạy học hướng đến chuẩn một cách chính xác và hiệu quả. Hiện nay các cơ sở giáo dục đã triển khai nhiều phương thức để thực hiện việc này thông qua các hoạt động mời giảng, đồng giảng, tọa đàm, hội thảo và nhiều hoạt động thực tập, thực tế khác.
Tuy nhiên, các hoạt động này cần được thiết kế một cách tổng thể, cộng hưởng với các hoạt động đào tạo chính khóa của giảng viên. Có lẽ đây là điểm mà các cơ sở giáo dục chưa làm được một cách hiệu quả khi sự tham gia của doanh nghiệp mới chỉ được coi là các hoạt động mang tính trách nhiệm xã hội, chưa xác định rõ các yêu cầu cụ thể để cộng hưởng và đóng góp vào chuẩn chung của chương trình đào tạo.
Cuối cùng, điểm quan trọng nhất được đề cập đến trong Nghị quyết là sự tham gia của doanh nghiệp vào đánh giá tốt nghiệp. Đây là điểm mang tính đột phá khi doanh nghiệp sẽ có vai trò nhất định vào việc quyết định sản phẩm đào tạo có đạt chuẩn để được đưa ra thị trường hay không. Nếu làm được việc này sẽ giúp tránh được tình trạng thừa thầy thiếu thợ, tình trạng doanh nghiệp phải đào tạo lại, bảo đảm sinh viên tốt nghiệp sẽ có khả năng “thực chiến”, giải quyết các vấn đề thực tế.
Việc này hoàn toàn có thể thực hiện nếu cả Nhà trường và doanh nghiệp đều thay đổi tư duy. Ví dụ, các vấn đề thực tiễn cập nhật của doanh nghiệp có thể là những tình huống, những câu hỏi trong đánh giá tốt nghiệp và chính các doanh nghiệp cũng là những người đánh giá. Kinh nghiệm của Trường đại học Ngoại thương trong một số hội đồng đánh giá tốt nghiệp có sự tham gia của chuyên gia thực tiễn đã cho thấy sự kết hợp hiệu quả để vừa đánh giá được kiến thức nền tảng vừa đánh giá được khả năng vận dụng và sáng tạo của người học.
Ngoài ra, có lẽ cần khẳng định sự tham gia của doanh nghiệp vào đánh giá tốt nghiệp nói riêng và quá trình đào tạo nói chung cần được coi là sự hợp tác win-win để cùng nhau cung cấp và sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng cho sự phát triển của quốc gia.
Nhà trường và doanh nghiệp cùng tham gia vào quá trình đào tạo và đánh giá tốt nghiệp đối với sinh viên.
Nhà trường và doanh nghiệp cùng tham gia vào quá trình đào tạo và đánh giá tốt nghiệp đối với sinh viên.
Sẽ triển khai chương trình đào tạo, bồi dưỡng 10.000 giám đốc điều hành đến năm 2030.
Sẽ triển khai chương trình đào tạo, bồi dưỡng 10.000 giám đốc điều hành đến năm 2030.
Sẽ triển khai chương trình đào tạo, bồi dưỡng 10.000 giám đốc điều hành đến năm 2030.
Sẽ triển khai chương trình đào tạo, bồi dưỡng 10.000 giám đốc điều hành đến năm 2030.
Phóng viên: Mục tiêu của Nghị quyết 68-NQ/TW đặt ra là đào tạo bồi dưỡng 10.000 giám đốc điều hành. Theo Phó Giáo sư, chương trình đào tạo này cần cần tập trung vào những năng lực gì để tạo ra đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp tư nhân có chất lượng?
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Ngọc Tiến: Trong bối cảnh thế giới biến động hiện nay, đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp cần phải có năng lực toàn diện và dài hạn để điều hành doanh nghiệp của mình vượt qua các khó khan thách thức. Một số năng lực cần được chú ý bao gồm:
(1) Năng lực tư duy chiến lược: doanh nghiệp cần có tầm nhìn dài hạn để linh hoạt và khéo léo vượt qua các biến động. Do dó, lãnh đạo doanh nghiệp cần có tầm nhìn xa, khả năng dự đoán và thích nghi với biến động thị trường.
(2) Năng lực quản trị rủi ro: doanh nghiệp cần xây dựng nền tảng vững, có khả năng chống chịu trước những biến động bất lợi. Người lãnh đạo doanh nghiệp cần có khả năng nhận biết, phản ứng nhanh, nhạy trước những biến động cũng như ra quyết định dựa trên dữ liệu và sáng tạo, linh hoạt trong xử lý tình huống.
(3) Năng lực lãnh đạo và truyền cảm hứng: nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thành công và phát triển là doanh nghiệp khai thác hiệu quả nguồn lực này. Điều này đòi hỏi giám đốc doanh nghiệp phải có năng lực lãnh đạo để thu hút, định hướng toàn bộ nguồn nhân lực theo mục tiêu chung của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, năng lực quản trị của đội ngũ lãnh đạo cũng cần được nâng cao và cập nhật trong bối cảnh chuyển đổi số và chuyển đối xanh hiện nay. Người lãnh đạo cần nhận thức, hiểu biết và cam kết với phát triển bền vững, phải biết cách tạo ra nguồn lực dữ liệu, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài sản dữ liệu này trong hoạt động điều hành doanh nghiệp của mình.
Phóng viên: Nguồn nhân lực chất lượng cao yêu cầu phải có những phẩm chất toàn diện. Làm sao để gắn kỹ năng số, ngoại ngữ, tư duy sáng tạo, STEM với các chương trình đào tạo hiện hành để chuẩn bị cho nguồn nhân lực của kinh tế tư nhân trong tương lai, thưa Phó Giáo sư?
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Ngọc Tiến: Có thể nói, cả hệ thống giáo dục đều đã nhận thức được yêu cầu phải đưa kỹ năng số, ngoại ngữ, tư duy sáng tạo, STEM vào các chương trình đào tạo. Việc này đã và cần tiếp tục được thực hiện ở các cơ sở giáo dục đào tạo một cách linh hoạt, thích hợp với đặc điểm, điều kiện của nơi. Có những cơ sở đưa tư duy sáng tạo, STEM vào thành những học phần độc lập, có những cơ sở tích hợp những nội dung này vào các học phần khác.
Tương tự như vậy, kỹ năng số, năng lực ngoại ngữ cũng được thực hiện trong chương trình hoặc trong các hoạt động ngoại khóa. Sự linh hoạt này hợp lý vì mỗi ngành học, mỗi cơ sở, địa phương có những đặc điểm riêng.
Tuy nhiên, từ góc độ hệ thống, cần xác định chuẩn tối thiểu của những yêu cầu này trong chương trình đào tạo của mỗi cấp học và đảm bảo sự liên thông. Yêu cầu cần thiết là các nội dung về năng lực số, ngoại ngữ hay tư duy sáng tạo đã và cần được đưa vào ở cả bậc học phổ thông và được bổ sung, tích lũy ở những bậc họp tiếp theo ở giáo dục nghề nghiệp hay đại học.
Gắn kỹ năng số, ngoại ngữ, tư duy sáng tạo, STEM với các chương trình đào tạo hiện hành.
Gắn kỹ năng số, ngoại ngữ, tư duy sáng tạo, STEM với các chương trình đào tạo hiện hành.
Khi đó, chúng ta sẽ không tốn thời gian để dạy lại những gì đã dạy ở các bậc học sau. Bên cạnh đó, cần mở rộng giới hạn không gian lớp học và chương trình học đối với những nội dung này. Các nội dung như kỹ năng số, ngoại ngữ hay tư duy sáng tạo có thể và có hiệu quả hơn nếu được dạy thông qua các hoạt động thực tế, ngoại khóa chứ không chỉ ở trong lớp học truyền thống.
Điều này đòi hỏi mỗi cơ sở giáo dục cần xây dựng được cho mình một hệ sinh thái giáo dục đào tạo mở, trong đó chương trình đào tạo chính khóa là hạt nhân phải được cộng hưởng với các hoạt động ngoại khóa, hoạt động thực tế và với sự tham gia của các doanh nghiệp và tổ chức.
Trân trọng cảm ơn những ý kiến của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Ngọc Tiến.

Ngày xuất bản: 1/6/2025
Chỉ đạo: KIM PHƯƠNG BÌNH
Tổ chức: XUÂN BÁCH
Thực hiện: QUỲNH TRANG, HẠNH VŨ, NHỊ HÀ KHÔI
Ảnh: Nhân Dân, Đại học Ngoại Thương