
Trở thành phóng viên chiến trường, cầm máy ra trận, ngay từ năm 1968 Chu Chí Thành đã đến với những trận chiến ác liệt, vùng đất “túi bom”... (Nhà báo Chu Chí Thành (đầu tiên) trên Vành đai điện tử Quảng Trị, tháng 3/1973.)(Ảnh: Đỗ Tráng)
Tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Trường đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1966, Chu Chí Thành “đầu quân” về Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) và được cử đi học lớp đào tạo Tin ảnh trong vòng một năm. Tháng 4/1968 ông trở thành phóng viên chiến trường, cầm máy ra trận, đến với những trận chiến ác liệt, vùng đất “túi bom”...
Dù đã 81 tuổi, Chu Chí Thành vẫn cầm bút viết báo, cầm máy chụp ảnh và vẫn say sưa kể những ký ức khó phai khi xông pha tác nghiệp.
Kỷ niệm
chuyến công tác đầu tiên đáng nhớ
Năm 1968, khi chính thức là phóng viên ảnh, tôi may mắn được người đồng nghiệp tận tâm, dìu dắt, hướng dẫn. Tháng 4/1968, chuyến công tác đầu tiên của tôi với tư cách là phóng viên ảnh là vào Khu 4 - tuyến lửa. Tôi và anh Lương Nghĩa Dũng đạp xe từ Hà Nội vào đến cầu Cấm, Nghệ An.
Tới một trận địa để tác nghiệp còn im ắng, nhưng chỉ một lúc sau thì máy bay thả bom oanh tạc. Mặc cho bom dội, các chiến sĩ pháo cao xạ dù chỉ có pháo 37 ly vẫn bình tĩnh bắn trả. Khi đó tôi cũng lăn xả vào chụp quang cảnh trận đánh. Thậm chí, để muốn chụp chân dung pháo thủ, tôi còn kê thêm thùng pháo đứng lên cho có độ cao để chụp được bức ảnh ưng ý hơn.
Sau lần đó, thấy tôi là một thằng “chơi được”, không sợ bom đạn chiến trường, anh Dũng quý mến, luôn bảo ban, che chở cho tôi như một người anh vậy. Tôi còn nhớ, lúc đi qua đoạn bị thả bom từ trường, chúng tôi phải vác xe đạp lên vai, đi dò dẫm từng bước một. Anh Dũng luôn đi trước, như là người dò bom vậy, dặn tôi đi sau phải bước cho đúng dấu chân của anh. Trở ra đến cầu Cấm thì lúc đó đã bị đánh bom không thể đi được, chỉ còn cầu phụ với 2 thanh đường ray tàu hỏa song song. Không còn cách nào khác, anh Dũng đi trước vác xe đạp lên vai, dạng chân chầm chậm đi hai hàng theo thanh tà vẹt đó, tôi học hỏi làm theo, vậy là hai anh em cùng nhau qua được khúc sông đó.
Lần đầu đụng bom B52
Chuyến công tác vào Quảng Bình, Quảng Trị sau đó, tôi tiếp tục được phân công đi cùng anh.Hai anh em tìm đến Pháo binh Ngư Thủy và Bến phà Long Đại để chụp. Phóng sự ảnh “Những cô gái giữ biển, giữ làng” và “Bến phà Y anh hùng” gửi đăng trên Báo Nhân Dân. Khi vào đến Vĩnh Thủy, Vĩnh Linh, anh Dũng lập tức xuống đơn vị pháo để chụp ảnh trực chiến, tôi đang tạm nghỉ ở ủy ban xã thì B52 đến thả bom, lập tức chạy nhanh vào hầm trú ẩn. Một lát sau anh Dũng chạy về, gọi hỏi rất nghiêm trọng “Đồng chí có làm sao không?”.Tôi trả lời “Em không sao”, thì anh Dũng nói tiếp “Ra khỏi hầm đi chụp chứ sao còn ở đó?”. Tôi chui ra khỏi hầm, anh Dũng bảo “Chụp khắc phục hậu quả sau khi bom nổ”. Sau đó tôi được biết, khi bom B52 thả, anh Dũng đang ở trên đồi chụp trực chiến đã vội chạy về tìm tôi, vừa chạy vừa phải nấp tránh bom thả đến 3 lần.
Mấy ngày sau, trước khi đi công tác ra đảo Cồn Cỏ, anh Dũng bàn giao lại các giấy tờ cá nhân của anh và dặn tôi nếu anh có chuyện gì thì về báo cáo với tổ chức. Đưa cho tôi thẻ đảng viên, anh động viên tôi cố gắng phấn đấu vào Đảng.
Anh Lương Nghĩa Dũng vốn là phóng viên phòng Thông tấn Quân sự Tổng cục Chính trị được biệt phái sang TTXVN, người luôn nhận phần khó về mình và hết lòng vì anh em. Trân quý anh, sau này tôi đã dành thời gian để tìm, tập hợp lại các ảnh của anh Dũng từng chụp nơi chiến trường để làm hồ sơ xin xét tặng giải thưởng cho anh. Liệt sĩ Lương Nghĩa Dũng (hy sinh năm 1972 tại Quảng Trị) được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2007 và Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2017.
Tình người
giữa tuyến lửa
Khi Hà Nội bị đế quốc Mỹ đánh bom B52 (tháng 12/1972), TTXVN cử một số phóng viên trực chiến, Phó Tổng Giám đốc TTXVN lúc bấy giờ là ông Đỗ Phượng gặp các phóng viên để động viên tinh thần: cuộc chiến đấu rất ác liệt, anh em phóng viên chúng mình luôn phải ra tuyến đầu, có thể hy sinh bất cứ lúc nào, nếu hy sinh sẽ được công nhận là liệt sĩ. Đêm 6/12/1972, không quân Mỹ ném bom B52 ở phố Khâm Thiên (Hà Nội). Sáng hôm sau tôi đi chụp phố Khâm Thiên và bệnh viện Bạch Mai, quang cảnh tan hoang và thảm khốc, thật đau thương... Khi đến khu
Định Công chụp máy bay rơi, thấy viên phi công Mỹ chết còn nằm đó, tôi đã chụp những giấy tờ mà người phi công này mang theo bên mình, trong đó có ảnh mẹ, ảnh vợ con của anh ta. Họ đều mong muốn anh ta trở về với gia đình, vợ con, nhưng nay điều đó là không thể. Những người lính phi công đã bị đánh lừa rằng chỉ đến Hà Nội thả bom như đi chơi rồi về. Vậy mà kết cục, họ phải trả giá bằng tính mạng của mình.
Ngày 21/1/1973, tôi cưới vợ. Chỉ 20 ngày sau, tôi lên đường vào Quảng Bình để chụp đợt trao trả tù binh. Được chứng kiến cảnh đoàn tụ của những chiến sĩ giải phóng, những người lính phía bên kia và tình người giữa người lính của hai bên, tôi không thể quên được những cái ôm, cái nắm tay thật chặt, những giọt nước mắt, những nụ cười hạnh phúc... Không ngờ rằng, chính những bức ảnh chụp trong đợt này sau đó đã mang đến cho tôi những giải thưởng lớn của một người làm nghề không dễ gì có được, đó là Giải thưởng Nhà nước và Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật chuyên ngành Nhiếp ảnh.
Chụp giỏi thế rồi, còn đi học làm gì?
Năm 1974, tôi được lãnh đạo TTXVN cử đi học ở Đức. Lúc đó tôi muốn được ở lại, tiếp tục làm phóng viên ảnh chiến trường, nhưng được quán triệt: Đi học cũng là nhiệm vụ. Sau một năm học tiếng Đức ở trong nước, tháng 11/1975 tôi lên đường sang Đức học Báo chí ở Trường đại học Karl Marx ở Leizig, hành trang mang theo có thêm mấy chục bức ảnh chụp trong chiến tranh. Khi cho các bạn Đức xem, họ bảo: “Mày chụp ảnh giỏi thế này rồi, còn đi học làm gì?”. Tôi trả lời: “Cái tôi có mới chỉ là thực hành, chưa có lý thuyết, chưa được học chuyên về nhiếp ảnh, nên tôi phải đi học cho căn bản”. Khóa học năm đó đã dạy cho tôi nhiều điều: các kiến thức cơ bản về nhiếp ảnh; nhận thức rõ được vị trí, vai trò của nhiếp ảnh trong đời sống, nghệ thuật, lĩnh vực báo chí; phân định rõ tính tài liệu là sự ưu việt của nhiếp ảnh mà báo chí cần phải khai thác; bên cạnh đó ảnh còn có tính nghệ thuật, tính lịch sử...Phần lớn bây giờ người ta nhìn vào lịch sử Việt Nam là nhìn qua ảnh, không ai chối cãi được tính xác thực, tính tư liệu của ảnh.
Từ phóng viên thành Tổng Biên tập
Năm 1980 tốt nghiệp về nước, tôi trở về TTXVN tiếp tục làm việc, rồi trở thành Trưởng ban biên tập ảnh của TTXVN, sau chuyển sang làm Giám đốc Nhà in TTXVN, Tổng Biên tập Tạp chí Nhiếp ảnh, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam.
Tạp chí Nhiếp ảnh lúc đó in đen trắng trên giấy thường. Với cương vị là Giám đốc nhà in, kiêm Tổng Biên tập, tôi đã có những bước làm “thay da đổi thịt” tờ tạp chí này cả về hình ảnh, nội dung, lẫn hình thức: ảnh in mầu trên giấy couché, nội dung mở hơn, gần với cuộc sống chứ không khô cứng chỉ là những bài học thuật, kỹ thuật về nhiếp ảnh. Các bức ảnh được chọn đăng phải phản ánh được vấn đề chính của cuộc sống, mang nội dung xã hội. Với ảnh nghệ thuật thì yêu cầu thông tin phải rõ ràng, có ý nghĩa nhân văn. Các báo chuyển đổi sang kinh tế thị trường, tạp chí cũng phải vậy thì mới đến gần được với độc giả.
Trình bày: Kim Thoa
Ảnh: Chu Chí Thành, Thành Đạt