
Hải Triều, tên thật là Nguyễn Khoa Văn. Ngoài chức trách một nhà hoạt động chính trị của Đảng, ông còn là một nhà nghiên cứu và tuyên truyền mác-xít, một nhà phê bình văn học trên lập trường chủ nghĩa Mác, một nhà báo của các diễn đàn công khai thời Pháp thuộc và sau Cách mạng Tháng Tám trong vùng tự do Liên khu Bốn.
Trước Cách mạng Tháng Tám, ông đã được nhiều người biết đến là nhà báo có khuynh hướng mác-xít, ngay từ bài báo đầu tiên dưới cái tên Nam Xích Tử (Đứa con đỏ nước Nam, trong đó chữ "Xích" có hàm ý rõ rệt). Với cái tên đó, ông đã viết bài báo dài tám kỳ mang tên “Chủ nghĩa tư bổn” in trên Kỳ Lân báo (Sài Gòn) năm 1929. Bị hạn chế bởi khuôn khổ báo chí và kiểm duyệt của Pháp, nhưng ông vẫn bám sát tinh thần cơ bản của bộ "Tư bản" của C.Mác để phân tích sự hình thành, quá trình khuếch trương và khẳng định chủ nghĩa tư bổn không tránh khỏi thảm cảnh “tự đào mồ chôn mình”.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ký tặng sách cho người viết.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ký tặng sách cho người viết.
Cũng với khát vọng và trách nhiệm giới thiệu chủ nghĩa Mác trong lòng xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, năm 1938, công trình “Chủ nghĩa mác-xít phổ thông” đã được Thư xã Tư tưởng mới (Huế) và Nhà in Trung Bắc tân văn (Hà Nội) xuất bản. Những năm 1933-1935, người ta còn biết đến các cuộc tranh luận triết học và văn chương do ông khởi xướng, như một cơ hội giới thiệu quan niệm của chủ nghĩa Mác về triết học và văn học nghệ thuật, điều chưa từng biết đến trước đó.
Trên con đường tuyên truyền lý luận mác-xít, trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, khi được cử làm Hội trưởng Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác Liên khu Bốn, Chủ nhiệm tạp chí Tìm hiểu của Hội, ông đã giới thiệu tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, và đề xuất “Xây dựng một nền lý luận mác-xít cho cách mạng Việt Nam”.
Năm 1931, bị lỡ chuyến đi đào tạo tại đại học Đông Phương của Liên Xô (trước đây) vì bị bắt trước ngày khởi hành (theo lời kể của Giáo sư Trần Văn Giàu), ông cơ bản là nhà lý luận tự học, bằng nguồn sách báo mác-xít và tiến bộ của Nhà xuất bản Xã hội Pháp, khi âm thầm, khi công khai, truyền sang Việt Nam. Không những thế, ông còn mở một cửa hàng sách báo lấy tên Hương Giang gần cầu Trường Tiền, để giới thiệu những công trình văn hóa, triết học tiến bộ của Pháp, Nga và Việt Nam, làm nơi giao lưu và học hỏi trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ.
Đứng trên lập trường cách mạng, ông ủng hộ văn chương “tả thực” (hiện thực), cổ súy cho những cây bút đứng về phía “bình dân”: Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Macxim Gorki, Romain Rolland... Ông luôn nêu cao quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”, một quan niệm không hề lỗi thời, dù cách giải thích lúc đó có phần đơn giản.
Đây là thời điểm công tác tuyên truyền chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phong trào cách mạng cả nước đã vươn lên bắt kịp trào lưu thế giới. Dưới các khẩu hiệu giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội, những hoạt động lý luận và văn hóa văn nghệ của Hải Triều nhanh chóng nhận được sự đồng tình, cổ vũ và chỉ đạo của Đảng cũng như các lực lượng tiến bộ trong cả nước, góp phần đẩy nhanh cao trào giải phóng dân tộc.
Nhà báo Hải Triều (đầu tiên từ dưới lên) chụp ảnh cùng gia đình.
Nhà báo Hải Triều (đầu tiên từ dưới lên) chụp ảnh cùng gia đình.

Là người nhạy cảm và năng động, Hải Triều không lúc nào buông lỏng cây bút báo chí của mình. Thể tài báo chí của ông rất rộng: Từ bình luận chính trị quốc tế, thông tin thời sự trong nước, phân tích tác phẩm văn chương và các trào lưu văn học, tranh luận học thuật…, ở lĩnh vực nào ông cũng không ngại “đụng chạm”, không lùi bước trước ánh mắt dò xét của các nhà cai trị thực dân, miễn là trình bày được nhận thức và chính kiến của mình. Sắc sảo và hóm hỉnh, ông luôn có khả năng lôi kéo người đọc vào trang viết, để trao đổi và thuyết phục.
Văn của Hải Triều như con người ông - nồng nhiệt và thân thiện.
Hoạt động báo chí đem lại cho ông nhiều tâm đắc, nhưng có lẽ hai sự kiện sau đây làm ông ghi nhớ mãi: Đầu năm 1937 cơ quan Xứ ủy Trung Kỳ vận động Nguyễn Xuân Lữ đứng ra lập tờ Nhành lúa để Hải Triều làm Tổng thư ký, vào lúc cuộc vận động Đông Dương đại hội và đón tiếp Gô-đa (Justin Godard, đại diện Chính phủ Pháp) đến Việt Nam thị sát, tình hình diễn ra sôi nổi. Tờ báo sẽ đóng vai trò là công cụ tuyên truyền, hướng dẫn quần chúng tham gia xuống đường, đưa đơn thỉnh nguyện lên Gô-đa. Đến ngày hành động, hàng chục phóng viên, cán bộ của Đảng với phù hiệu nhà báo đã có mặt cùng hàng vạn nông dân, lao động, học sinh từ Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang đến Huế, kiên khổ chờ đón Gô-đa trong suốt hai ngày, không lùi bước trước thủ đoạn đối phó của tòa Khâm sứ Pháp, cuối cùng đã đạt kết quả xứng đáng. Trong những ngày đó, Hải Triều thường xuyên có mặt, vừa làm phiên dịch cho người dân đưa đơn thư, vừa ghi chép sự kiện để viết bài phóng sự dài, tỉ mỉ về cuộc đón tiếp. Tờ Nhành lúa số 8 dành số đặc biệt đón Gô-đa đăng bài viết của Hải Triều: “Hơn một vạn quần chúng nông, công, học sanh và tiểu thương tiếp rước viên Lao công đại sứ của chánh phủ chiến tuyến Bình dân”. Bài viết dài gần 4.500 chữ, với nhiều tiểu mục như một cuốn phim ly kỳ, thu hút rất nhiều người tìm đọc.
Người Pháp không chịu đựng được tiếng nói của Nhành lúa, đã quyết định rút giấy phép. Tờ báo chỉ còn kịp ra số 9 thì dừng lại, đó là ngày 19/3/1937.
Tám ngày sau, ngày 27/3, một sự kiện lớn của báo chí Việt Nam đã bùng nổ tại Huế: Hội nghị báo giới Trung Kỳ, với sự có mặt của Hải Triều, người đọc báo cáo chính. Trong hội nghị có mặt cả Võ Nguyên Giáp đại diện cho báo chí Bắc Kỳ, và nhiều tên tuổi trong làng báo miền trung và miền nam. Toàn bộ báo cáo của Hải Triều tại hội nghị đã được đăng tải trên tờ Kinh tế tân văn số 1, ra ngày 8/4 năm đó như một sự kế tục của tờ Nhành lúa. Với trên 4.000 chữ, bản Báo cáo tình hình báo chí do Hải Triều soạn thảo, với sự góp ý của các đồng chí, cũng chính là Bản án chống chủ nghĩa thực dân Pháp trên phương diện báo chí và ngôn luận, vạch ra bảy việc làm trước mắt của giới báo chí Trung Kỳ, góp tiếng nói sắc bén vào phong trào Dân chủ do Đảng lãnh đạo.
Huế chưa phải là nơi có số lượng đầu báo và người đọc lớn, nhưng đây là lần đầu tiên chí khí của người làm báo miền trung làm nức lòng cả nước.
Cuộc đời báo chí của Hải Triều rất phong phú. Không chỉ viết, ông còn hăng hái đi nói chuyện, “tuyên truyền miệng” cho cán bộ, chiến sĩ, nhân dân… nhiều vùng ở Thanh Hóa, Nghệ An, nơi cơ quan Sở Thông tin tuyên truyền Liên khu Bốn có mặt. Nhiều người có ấn tượng đặc biệt về các bài nói chuyện của ông về tình hình đất nước và thế giới, những nhiệm vụ trước mắt của cuộc kháng chiến. Có khi vừa nói chuyện, ông vừa hò Huế rất vui vẻ. Sách “Hải Triều toàn tập” (Nxb Chính trị quốc gia, 2014) còn lưu lại đầu đề 14 bài nói chuyện của ông, dù không còn tìm được nội dung cũng cho thấy một phương thức hoạt động báo chí độc đáo.
Trong 46 năm đời mình, Hải Triều phải chịu đựng nhiều mất mát lớn: Mẹ ông- bà Đạm Phương nữ sử, người thầy đầu tiên dạy ông làm báo, viết văn - mất ở Thanh Hóa năm 1947; và anh trai ông - nhà giáo Nguyễn Khoa Tú, trường Quốc học (Huế), bị miễn nhiệm phải đi tìm việc ở Sài Gòn, sau vụ Hải Triều tham gia bãi khóa và bị đuổi học (tháng 4/1927), để rồi bốn năm sau ông Tú bị tra tấn đến chết tại bót Catinat vì thực dân Pháp nghi ông tham gia Cứu Tế Đỏ. Em trai ông, nhạc sĩ Hải Châu, mất tại sông Lam gần bến đò Vạn Rú vì máy bay Pháp oanh tạc, trong một chuyến công tác năm 1951. Những con người thân thiết đó, và cả nhiều người khác nữa, đã khắc vào tâm hồn ông, trang viết của ông nhiều tâm tình sâu nặng.
Còn thêm một niềm gắn bó nữa là sự nghiệp cách mạng và văn chương cách mạng - điều ông đã bắt gặp khi bước chân ra khỏi trường Quốc học đi vào cuộc đời, điều đã dẫn ông vào một hành trình cao đẹp, để một ngày cuối đời ông tự hào di chúc gửi lại: “Đời tôi chiến đấu cho nghệ thuật và văn chương cách mạng”.
Hải Triều mất ngày 6/8/1954 tại Thanh Hóa. Ông hiện an nghỉ tại Nghĩa trang mang tên Phan Bội Châu, thành phố Huế.

Trình bày: Hạnh Vũ
Ảnh: TTXVN, Nhân Dân