Nhà báo Đậu Ngọc Đản cho rằng mình là người may mắn trong nghề báo. Nhưng để đến cái may ấy, phải đi qua một cuộc chiến tranh. Hành trình của nhà báo đi qua mọi thăng trầm của đất nước và bây giờ nhìn lại ông vẫn chỉ có thể nói nhẹ nhàng: Chuyện quá khứ, nhớ quên thuộc về lịch sử...
Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày báo chí cách mạng Việt Nam, chúng tôi xin giới thiệu cuộc trò chuyện thú vị giữa nhà báo Đậu Ngọc Đản - người được biết đến với tên gọi "phóng viên chiến tranh" và nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại - như một lát cắt sâu để khắc hoạ rõ hơn "chuyện đời, chuyện nghề" của một thế hệ làm báo đầy quả cảm và nhiều chiêm nghiệm.

Nhà báo Đậu Ngọc Đản, người anh đồng hương, là một phóng viên chiến tranh đúng như tôi mơ ước, yêu quý, trân trọng và có cả chút “ghen tị” vì không được như anh! Anh có thời gian công tác ở báo Nhân Dân, trở thành Tiến sĩ báo chí, rồi chuyển công tác sang Đài Truyền hình Việt Nam, là người đầu tiên được phân công giữ chuyên mục Xây dựng Đảng, một chuyên mục khá nổi tiếng vào những năm 90, rồi lại được giao làm Tổng Biên tập Tạp chí Truyền hình Việt Nam, một tạp chí tự chủ ngân sách và bán rất chạy. Nghĩa là cả viết báo, làm báo, anh đều rất giỏi. Sau này, ngay cả khi nghỉ hưu, anh còn được mời làm phóng viên chuyên trách cho Chủ tịch nước…

Tuy vậy “phóng viên chiến tranh” vẫn là một ấn tượng sâu sắc trong tôi về nhà báo Ngọc Đản. Và trong một ngày, trước thềm 30-4, tôi đã gạn ghẽ anh về duyên nợ này.

Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Anh có nhiều chức danh. Anh thích người ta gọi anh là gì?

Nhà báo Đậu Ngọc Đản: Quan trọng gì! Tất cả chỉ là vật ngoại thân, phù phiếm hết. Gọi “nhà báo” là được. Gọi là “nhà báo chiến trường”, “phóng viên chiến tranh” đều đúng.

Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Cơ duyên nào đưa anh đến với báo chí?

Nhà báo Đậu Ngọc Đản: Ngẫu nhiên. Tớ tốt nghiệp lớp 10 năm 1969, lúc đầu được cử đi Đại học Thủy sản. Sau được Báo Hà Tĩnh giới thiệu đi học Trường Tuyên huấn Trung ương, là sinh viên Khóa I của trường này.

Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Đúng, tôi nhớ, từ ngày Mỹ ném bom miền bắc, ta bỏ thi đại học, chỉ cử tuyển, đến năm 1970 mới tổ chức thi lại. Hồi ấy cái gì cũng tổ chức phân công, đi học cũng phân công. Nhưng sao lại phân công anh học báo chí?

Nhà báo Đậu Ngọc Đản: Tớ vừa bảo đi học báo là ngẫu nhiên, nhưng nó cũng có giai do. Từ bé, tớ thích viết, có gửi bài và được đăng báo Hà Tĩnh, thậm chí có bài đăng báo Nhân Dân. Đó là bài viết về một ông bưu điện xã. Còn bài viết về tấm gương của một cô vợ bộ đội giỏi việc nước đảm việc nhà thì được giải nhì của báo Hà Tĩnh. Xưa người ta hay chú ý và vun đắp cho năng khiếu, vun đắp và bắt buộc phục vụ cách mạng theo khả năng, sở trường của mình.

Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Bước ngoặt ấy có làm cho anh phân vân?

Nhà báo Đậu Ngọc Đản: Không, tớ rất thích. Và đó là may mắn đầu tiên. Không học báo, tớ không được đi nhiều chiến trường như thế, không có được những cơ hội may mắn khác sau này. Tớ kể cho cậu nghe chuyện này, không phải để khoe. Ngày 5-8-1964, Mỹ ném bom ra miền bắc, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại, và trận bom đầu tiên là ném bom xuống Thành phố Vinh, cách quê tớ Nghi Xuân một con sông Lam. Kho xăng Bến Thủy bị cháy, khói lửa ngút trời. Người chết, nhà đổ… Cảnh đó càng thắp vào tuổi thiếu niên ngọn lửa căm thù và ý chí đánh Mỹ.

Ngoài những Pa-ven trong sách, có một tấm gương tươi nóng trong trận đó: anh Phan Đăng Cát, khẩu đội trưởng khẩu đội 4, đại đội phòng không 138, được nghỉ phép vừa rời đơn vị, nghe tiếng báo động liền chạy về trận địa chỉ huy khẩu đội chiến đấu. Buổi sáng, các anh đã cùng quân dân Thành phố Vinh bắn rơi hai máy bay. Chiều đó, địch dùng 8 chiếc AD 6, đánh thẳng vào trận địa C138, vừa ném bom, vừa phóng 100 quả rốc két. Anh Cát bị thương hai lần vẫn bình tĩnh tựa lưng vào công sự chỉ huy khẩu đội đánh trả quyết liệt. Lần thứ 3, một mảnh rốc két găm thẳng vào bụng. Anh gục xuống, rồi gượng đứng lên hô to: “Quyết tâm bảo vệ quê Bác, đánh đến cùng”! Suốt đời lính, đời làm báo, tớ luôn mang theo tiếng hô ấy của anh ấy…

Nhà báo Đậu Ngọc Đản (ngoài cùng bên phải) cùng các đồng nghiệp trong chuyến vượt đèo Hải Vân vào tháng 3/1975. Ảnh: NVCC

Nhà báo Đậu Ngọc Đản (ngoài cùng bên phải) cùng các đồng nghiệp trong chuyến vượt đèo Hải Vân vào tháng 3/1975. Ảnh: NVCC

Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Anh vào bộ đội ngay khi đang là sinh viên?

Nhà báo Đậu Ngọc Đản: Đấy là may mắn thứ hai. Vào trường, Tổng cục Chính trị chọn trong 7 lớp (lúc đó gọi là chi) học ngành báo chí và xuất bản được 53 người vào lớp phóng viên chiến trường, gọi là lớp phóng viên tiền phương. Đang học năm thứ 3, năm 1972, lớp phiên chế thành đại đội 28 (28/2/1972) và tất cả được tung vào Quảng Trị. Tớ được cắm vào trung đoàn 36, sư 308. Cuộc đời phóng viên chiến tranh bắt đầu từ đó.

Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Trong chiến tranh, có những đơn vị đặc biệt, thí dụ trung đội rồi đại đội, tiểu đoàn nữ lái xe. Đại đội báo chí cũng là trường hợp đặc biệt nhưng ít thấy ai nói đến. Anh có tự hào về điều đó?

Chuyện quá khứ, nhớ quên thuộc về lịch sử. Những ai cần thì khơi dậy, không thì bỏ qua. Ở đời, có bao thứ bị lãng quên, bao thứ méo mó. Không nói chuyện này nữa. Chỉ biết tớ trở thành phóng viên chiến tranh từ ngày đó.
Nhà báo Đậu Ngọc Đản

Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Và chức danh chính thức là “Phóng viên Thông tấn Quân sự”?

Nhà báo Đậu Ngọc Đản: Đúng. Là bộ đội, là người của Tổng cục Chính trị nhưng cũng có thể coi là người của TTXVN về chuyên môn. Và nhờ là người của Thông tấn Quân sự nên có may mắn thứ ba: Được trang bị đầy đủ máy ảnh, máy quay phim và các phương tiện hoạt động nghiệp vụ khác mà các nhà báo thường khác có mơ cũng khó được. Cho nên mình viết, quay phim, chụp ảnh đều linh hoạt, hiệu quả. Đăng một cái ảnh hồi ấy cũng nổi, tên tuổi được cả nước biết đến…

Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Năm 1972, tôi có được nghe trên đài một bài viết của anh về thành cổ. Tôi nhớ vì có hai người anh chiến đấu ở đó (sau này đều hy sinh). Tôi cũng nhớ mãi tên anh từ đó…

Nhà báo Đậu Ngọc Đản: Đó là bài “Dũng sĩ thành Quảng Trị”, được Kim Cúc đọc trên Đài Tiếng nói Việt Nam trong rất nhiều buổi phát thanh. Lại có bài “Trận đánh mang sức nóng Quảng Trị” trên báo Nhân Dân, trong chuyên mục “Viết tại chỗ về Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”. Về chuyên mục này, hồi ký chưa xuất bản của nhà báo Thép Mới viết: “Chưa bao giờ tờ báo đối với người Hà Nội đáng yêu đến như thế! Thực hiện chỉ thị còn mới của Ban Bí thư về công tác báo nhấn rất mạnh sự “Tranh thủ trí tuệ của toàn xã hội”, chúng ta (Báo Nhân Dân) lôi cuốn cả Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận và nhiều cây viết tên tuổi cộng tác với chúng ta.

Vì chúng ta hiểu rằng đồng bào miền nam chịu họ hơn chúng ta nhiều. Đặc biệt sau đêm chiến thắng rực rỡ 26/12/1972, báo sáng 28 chúng ta ra lời kêu gọi bạn đọc viết cho mục “Viết tại chỗ về Hà Nội – Điện Biên Phủ”, sáng tạo ra thành ngữ “Điện Biên Phủ trên không” … Tức là chuyên mục này nhằm tập hợp những nhà văn lớn, nhưng cây bút tên tuổi, tớ được “chen” vào đó là một may mắn. Đang thích ở chiến trường thì Cục Tuyên huấn yêu cầu về Phòng Thông tấn Quân sự tại Hà Nội. Lúc đó ra Hà Nội là sống, là không gian khổ nữa. Nhưng tớ lại khác, không muốn làm lính cậu. Ông Lê Minh, Trưởng phòng vừa lệnh, vừa an ủi: “Cậu yên tâm. Ở đây còn đi chiến trường nhiều hơn”!

Trong tổ chức thời ấy, Thông tấn Quân sự thì gắn chặt với TTXVN, Phát thanh quân đội thì gắn vào Đài Tiếng nói Việt Nam.

Quả như ông Lê Minh nói, ở Thông tấn Quân sự, tớ được đi nhiều hơn, rộng hơn. Suốt hai năm 1973 -1974, tớ liên tục được cử vào chiến trường Quảng Trị. Trong cuộc chiến tranh biên giới tây nam năm 1977-1979, chiến tranh biên giới phía bắc năm 1979; tớ đều được có mặt ở chiến trường, trên những mũi nóng bỏng nhất.

Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Cô Nhíp – chiến sĩ biệt động Nguyễn Trung Kiên dẫn đường cho xe tăng ta tiến vào Sài Gòn năm 1975 là một bức ảnh lịch sử, có hàm lượng thông tin rất lớn, vừa nói được sự thần tốc, tính chất toàn dân, toàn diện… của cuộc kháng chiến. Đây có phải cái may nữa của anh?

Nhà báo Đậu  Ngọc Đản: Nói may cũng đúng. Nhưng để đến cái may ấy, nhà báo phải đi qua một cuộc chiến tranh.

Tháng 2-1975, tớ được lệnh vào nam, theo bước các binh đoàn trong cuộc Tổng tiến công, nổi dậy. 26/3 có mặt ở Huế. Đi xe Honda vượt Hải Vân, 29/3 có mặt ở Đà Nẵng. 29/4 đến Xuân Lộc. Gặp Cục trưởng Cục Văn hóa Hồng Cư, Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn 2 Lê Khả Phiêu, được các ông trực tiếp giao nhiệm vụ đi ngay vào Sài Gòn, theo trung đoàn 66 của 304. Rồi gặp và bám xe tăng thứ tư của Lữ đoàn 203. Đánh nhau ác liệt ở cầu Sài Gòn.  Tiến thẳng vào Dinh Độc lập, chứng kiến và chụp được ảnh Phạm Xuân Thệ, đại úy, Trung đoàn phó, hùng dũng bước lên nhận sự đầu hàng của chính quyền Sài Gòn. Tớ và anh Hoàng Thiểm, quê Hà Giang, cùng ở TTQS là hai nhà báo đầu tiên của miền bắc có mặt tại Dinh Độc lập vào giây phút lịch sử ấy, đúng vào 11 giờ 30 phút ngày 30/4.

Cô Nhíp (tức nữ biệt động Nguyễn Trung Kiên) nổi tiếng của nhà báo Đậu Ngọc Đản chụp vào buổi chiều 30/4/1975 tại sân bay Tân Sơn Nhất. Ảnh: NVCC

Cô Nhíp (tức nữ biệt động Nguyễn Trung Kiên) nổi tiếng của nhà báo Đậu Ngọc Đản chụp vào buổi chiều 30/4/1975 tại sân bay Tân Sơn Nhất. Ảnh: NVCC

Tớ gặp cô Nhíp ở Tân Sơn Nhất. Thấy xe tăng cắm cờ Quân Giải phóng, lại có cô gái đẹp, vừa hiền dịu, vừa hiên ngang. Hỏi, được biết là xe tăng Quân đoàn 3, cô gái tên là Cao Thị Nhíp, tên hoạt động là Nguyễn Trung Kiên. Nhíp con nhà nghèo, quê Tiền Giang, lên Sài Gòn hoạt động cách mạng, tham gia biệt động thành dưới vỏ bọc là người làm công cho gia đình một sĩ quan ngụy. Vốn thông thuộc đường sá, Nhíp đã dẫn đường cho xe tăng ta vào đánh Tân Sơn Nhất và các vị trí quân sự khác.

Đúng như cậu đã nhận định về bức ảnh, khi gặp cô Nhíp bên xe tăng, tớ đã bị cái đẹp cuốn hút, cảm giác ngay rằng đây là một hình tượng. Hình tượng của tổng tiến công (quân chủ lực) và nổi dậy (nhân dân). Hình tượng Việt Nam: Nụ cười tươi sáng, hiền dịu, yêu hòa bình nhưng kiên cường gan góc, quyết thắng. Trong tư thế chiến thắng, toát lên sự nhân hậu, vị tha…

Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Anh chụp bức ảnh đó bằng máy gì?

Nhà báo Đậu Ngọc Đản: Máy Canon, nhưng ống kính liền, chỉ một tiêu cự. Trước đó chủ yếu chụp bằng máy Kiep.

Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Tôi được biết, ông đã “điều” một sĩ quan ngụy lái xe chở ông từ Sài Gòn ra Đà Nẵng để chuyển bài vở ra bắc? Sao ông có thể làm được điều ấy?

Nhà báo Đậu Ngọc Đản: Trong trưa 30/4 ấy, từ Dinh Độc lập tôi không đi về Đài phát thanh, mà tìm cách chuyển bài vở nhanh ra bắc. Trong sân, rất nhiều nhân viên, tùy tùng của chính phủ Sài Gòn đứng đợi. Tôi nói to, dõng dạc: “Chúng tôi là phóng viên ở miền bắc vào. Đây là thời cơ lập công của các ông. Ai có thể chở chúng tôi đưa tài liệu ra Hà Nội”? Năm sáu cánh tay giơ lên. Tôi chỉ vào một người. Đó chính là Võ Cự Long, sĩ quan lái xe dẫn đường của nội các Sài Gòn.

Theo yêu cầu của chúng tôi, Long chở tôi và phóng viên Hoàng Thiểm đến Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu ngụy và sân bay Tân Sơn Nhất rồi thẳng ra Đà Nẵng. Bài và ảnh phản ánh những giây phút giải phóng đầu tiên ở Sài Gòn của chúng tôi được chuyển bằng chuyến máy bay đầu tiên từ Đà Nẵng ra Hà Nội.

Xe tăng Lữ đoàn 203 tiến vào Dinh Độc lập trưa 30/4/1975. (Ảnh: Nhà báo Ngọc Đản)

Xe tăng Lữ đoàn 203 tiến vào Dinh Độc lập trưa 30/4/1975. (Ảnh: Nhà báo Ngọc Đản)

Phản ứng nghề nghiệp ấy trước hết là do tính cấp bách, trọng đại của công việc, phải tìm mọi cách, dù nguy hiểm, hy sinh, nhưng phải chuyển được tài liệu về cơ quan nhanh nhất. Có thể giải thích thêm, vào thời điểm đó, các phương tiện thông tin của ta còn lạc hậu, của ngụy thì đã bị cắt đứt, chưa khôi phục được; nên chuyển một tấm ảnh cũng kỳ công, tốn kém đến như vậy. Và cũng thấy thêm, phần lớn người Việt Nam, khi giác ngộ được điều gì có ích cho đất nước, họ đều sẵn sàng. Nhân đây, một lần nữa, tôi rất biết ơn anh Võ Cự Long.

Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại: Chúng ta đang ở trong những ngày tháng sáu, trong không khí thiêng liêng, có thể nói như vậy, kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam. Suốt một đời làm báo, anh nghĩ gì về nghề?

Nhà báo Đậu Ngọc Đản: Cậu thấy nó thế nào? Nghề báo với tớ thật sự là một nghề cao quý, hấp dẫn. Cảm nhận này có được từ khi khi nhận được một giải thưởng của báo Hà Tĩnh. Chỉ là một đứa trẻ con, vì bài báo mà cả xã, cả huyện biết đến và ai cũng tôn trọng. Ý nghĩ được ghi nhớ suốt đời là: Mình trân trọng cuộc đời, vì người khác, sẽ được mọi người trân trọng.

Nghề báo là một nghề hay vì được đi nhiều, nghe nhiều do đó học được nhiều, và bắt phải không ngừng học hỏi để tiến mãi, nhất là học trong cuộc sống, học để sống. Làm báo không muốn mới cũng phải mới, nên được và phải làm mới mình liên tục. Khi bài báo viết xong, trước mắt lại là một tờ giấy trắng… Ngày mới, đề tài mới, lại bắt đầu lại từ đầu…
Nhà báo Đậu Ngọc Đản

Nghề báo hay vì có nhiều bạn, bạn đủ các giới.

Nghề báo hay vì nói được tiếng nói của dân, có khi đại diện được cho họ - tức là con người mình được nhân lên; được dân tin mến, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ…

Làm báo là làm chính trị nhưng không lợi dụng nó để mưu cầu lợi ích riêng từ hoạt động chính trị… Ngoài chuyện phải đọc, phải học suốt đời thì điều quan trọng hơn, là không bao giờ được bẻ cong ngòi bút, chỉ phục vụ bạn đọc, đấu tranh không ngừng cho việc “phò chính trừ tà” như Bác Hồ đã nói.

 Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại:    Xin cảm ơn anh! Chúc anh mãi là người lính tuổi hai mươi trên mặt trận báo chí!

Nhà báo Đậu Ngọc Đản sinh năm 1949, tại xã Xuân Hải (Nghi Xuân) trong một gia đình nông dân giàu truyền thống yêu nước. Ông từng công tác ở báo Nhân Dân, trở thành Tiến sĩ báo chí, rồi chuyển sang Đài Truyền hình Việt Nam giữ chuyên mục Xây dựng Đảng, sau làm Tổng Biên tập Tạp chí Truyền hình Việt Nam. Năm 1972, ông được tung vào mặt trận Quảng Trị. Ngày 30/4/1975, ông là một trong hai phóng viên miền bắc đầu tiên có mặt tại Dinh Độc Lập.

Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại sinh năm 1955 tại Phú Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Văn. Ông từng tham gia quân đội trong những năm chống Mỹ, và sau này là phóng viên Báo Nhân Dân. Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại cũng là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm đã xuất bản của ông gồm: “Nơi em về”, “Trái tim người lính”, “Dưới sắc cờ và trời thu Hà Nội”... (thơ); “Một số đặc trưng của thơ tứ tuyệt đời Đường” (Nghiên cứu), “Khoảng trời con gái” (Kịch).

Ngày xuất bản: 10/6/2025
Nội dung: NGUYỄN SĨ ĐẠI
Ảnh: Tư liệu, THI UYÊN
Trình bày: DUY LONG