
Giai đoạn 1865-1925 là thời kỳ hình thành và phát triển nền báo chí của Việt Nam dưới sự chi phối của chế độ thực dân Pháp. Từ chỗ chỉ là những hình thức truyền thông trực tiếp như tiếng mõ làng hay những buổi giảng thập điều trong sinh hoạt thông tin làng xã, báo chí Việt Nam đã chuyển mình mạnh mẽ nhờ sự xuất hiện của kỹ thuật in ấn hiện đại và ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Năm 1865 đánh dấu một bước ngoặt với sự ra đời của Gia Định Báo – tờ báo Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam, cũng là mốc mở đầu cho lịch sử báo chí ở nước ta.
Nam Kỳ là nơi hội tụ đầy đủ các điều kiện kỹ thuật, xã hội và con người để hình thành nền báo chí sớm nhất. Kỹ thuật in hoạt bản (chữ rời) du nhập vào theo chân đội quân xâm lược Pháp, giúp cho việc xuất bản các tờ báo định kỳ trở nên dễ dàng hơn. Từ các nhà in của chính quyền Pháp như Imprimerie Impériale ở Sài Gòn đến những nhà in tư nhân như Schneider ở Hà Nội, hệ thống in ấn ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cùng với đó là sự phát triển của chữ Quốc ngữ, dòng chữ này được Pháp khuyến khích sử dụng như một công cụ cai trị. Tuy nhiên, chính chữ Quốc ngữ đã trở thành phương tiện hữu hiệu để truyền bá tri thức và tư tưởng tiến bộ trong xã hội Việt Nam.
Những người làm báo đầu tiên như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của không chỉ là nhà báo mà còn là nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và học giả uyên bác. Trương Vĩnh Ký là người có ảnh hưởng sâu rộng khi làm giám đốc Gia Định Báo và chủ trương dùng văn phong đơn giản, gần gũi, giúp báo chí Việt Nam thoát khỏi ảnh hưởng của văn chương Hán học. Các tờ báo đầu tiên ra đời như Gia Định Báo, Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn đều mang nặng chức năng công báo, nhưng dần dần mở rộng sang các chuyên mục văn hóa, xã hội, thậm chí phản ánh những vấn đề thời sự và khơi dậy tinh thần yêu nước.
Tại Nam Kỳ, nơi có chính sách tự do báo chí tương đối nhờ Đạo luật 1881, báo chí phát triển mạnh cả về số lượng lẫn nội dung. Nông Cổ Mín Đàm (1901) là tờ báo kinh tế đầu tiên, đồng thời cũng là nơi ươm mầm cho tiểu thuyết quốc ngữ với sự góp mặt của các cây bút như Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh. Lục Tỉnh Tân Văn (1907) do Trần Chánh Chiếu làm chủ bút là tờ báo mang màu sắc chính trị rõ rệt, cổ vũ duy tân, vận động dân trí và phản ánh tinh thần chống thực dân thông qua các bài viết khéo léo. Dù chịu nhiều sức ép kiểm duyệt, các tờ báo ở Nam Kỳ vẫn thể hiện bản sắc dân tộc, phản ánh sâu sắc tâm tư của tầng lớp trí thức bản xứ.
Gia Định Báo, Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Vân Văn
Gia Định Báo, Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Vân Văn
Báo chí giai đoạn này không còn đơn thuần đưa tin mà còn bắt đầu xuất hiện tiểu thuyết đăng kỳ, mục bình luận, xã luận, quảng cáo thương mại… Nhiều cây bút như Lê Hoằng Mưu, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Chánh Sắt... vừa là nhà báo vừa là tiểu thuyết gia, đóng vai trò quan trọng trong hình thành nền văn học hiện đại.
Ngoài ra, thời kỳ này xuất hiện những tờ báo chuyên biệt như Nữ Giới Chung (1918) – tờ báo phụ nữ đầu tiên do Sương Nguyệt Ánh làm chủ bút; Sư Phạm Học Khóa (1920) – tờ tạp chí dành riêng cho giới giáo viên, học sinh. Điều đó cho thấy sự đa dạng hóa đối tượng và nội dung báo chí ngay từ giai đoạn đầu.
Google Doodle tôn vinh Sương Nguyệt Ánh là nữ tổng biên tập của tờ báo phụ nữ đầu tiên ở Việt Nam. Vào ngày 1-2-1918, tờ báo Nữ Giới Chung xuất bản
Google Doodle tôn vinh Sương Nguyệt Ánh là nữ tổng biên tập của tờ báo phụ nữ đầu tiên ở Việt Nam. Vào ngày 1-2-1918, tờ báo Nữ Giới Chung xuất bản
Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, báo chí cũng bị kiểm soát chặt chẽ. Tuy vậy, những tờ báo như Đông Dương Tạp Chí, Nam Phong Tạp Chí vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá tri thức phương Tây và hình thành diễn đàn thảo luận học thuật, xã hội. Nam Phong, dưới sự điều hành của Phạm Quỳnh, trở thành một tạp chí học thuật uy tín, tạo ra môi trường để giới trí thức Việt Nam thảo luận từ ngôn ngữ, văn hóa đến chính trị. Dù bị gắn với tư tưởng thân Pháp, không thể phủ nhận vai trò tích cực của Nam Phong trong sự phát triển văn hóa và nhận thức xã hội lúc bấy giờ.
Về mặt độc giả, báo chí giai đoạn đầu chủ yếu phục vụ quan lại, trí thức và viên chức hành chính – những người biết chữ Hán hoặc Quốc ngữ. Tuy nhiên, cùng với sự mở rộng của giáo dục và đô thị hóa, tầng lớp thị dân, thương nhân và cả nông dân biết chữ dần trở thành độc giả tiềm năng. Các báo bắt đầu bán thay vì phát không như trước đây, phản ánh sự thay đổi trong vai trò của báo chí từ công cụ chính quyền sang thị trường truyền thông. Việc nhiều tờ báo có chuyên mục quảng cáo, tiểu thuyết, mục rao vặt… cũng chứng minh rằng báo chí lúc này đã có tính thương mại và dân sinh rõ rệt.

Thời kỳ này, báo chí Việt Nam nằm trong sự kiểm duyệt gắt gao của chính quyền thực dân. Chúng ra nhiều đạo luật để thực hiện trong đó có sắc lệnh ngày 30/12/1989. Tất cả các báo in bằng Việt ngữ, Hoa ngữ hay bất cứ một thứ tiếng nào khác không phải tiếng Pháp đều trải qua quá trình xin phép, kiểm duyệt nội dung trước khi phát hành. Việc này khiến nhiều tờ báo phải đứng tên người Pháp hoặc người có quốc tịch Pháp để né tránh pháp lý, điển hình như Gia Định Báo, Nông Cổ Mín Đàm hay Lục Tỉnh Tân Văn. Báo chí tiếng Việt thường bị kiểm duyệt nghiêm ngặt hơn báo tiếng Pháp, vì lo ngại chúng có thể truyền bá tư tưởng yêu nước, chống đối chế độ cai trị. Luật được áp dụng nhằm để không những đàn áp báo chí Việt Nam mà còn hạn chế quyền tự do báo chí rộng rãi của Pháp tại Nam Kỳ.
Trong khi đó tại Bắc và Trung Kỳ, các nhà hoạt động báo chí gặp nhiều khó khăn khi một lúc phải vừa chống triều đình, vừa chống thực dân. Bởi lẽ, người Pháp đã đặt ra quan khâm sứ Trung kỳ và Thống sứ Bắc kỳ, là những người có nhiệm vụ kiểm soát toàn bộ các hoạt động, trong đó có báo chí. Điều này giải thích tại sao trong suốt những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ này, rất hiếm có những tờ báo chống đối chính quyền mà chỉ chuyên nói về văn chương nghệ thuật, thương mại, khoa học kỹ thuật… nhiều tờ báo yêu nước buộc phải thông qua văn chương, khảo cứu, tiểu thuyết để truyền tải tư tưởng phản biện hoặc khơi gợi tinh thần dân tộc.
Dù trong tình thế khó khăn, báo chí vẫn âm thầm góp phần cổ vũ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân và tạo điều kiện cho sự ra đời của báo chí cách mạng sau này. Nhiều nhà báo-trí thức như Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… vừa làm báo, vừa giữ vai trò lớn trong văn hóa, chính trị giai đoạn giao thời.

Từ năm 1920 trở đi, báo chí Việt Nam bước vào giai đoạn chuyển tiếp sang thời kỳ chuyên nghiệp hơn. Sự xuất hiện của nhiều tờ nhật báo, bán nguyệt san và tạp chí chuyên đề cho thấy báo chí đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa đô thị. Cùng với sự phát triển của các nhà in, đội ngũ làm báo cũng được mở rộng với các cây bút có tay nghề cao, có phong cách rõ ràng, và phần lớn xuất thân từ giới trí thức Tây học. Họ không chỉ làm báo, mà còn viết văn, dạy học và tham gia vào các phong trào chính trị, xã hội. Báo chí vì vậy không chỉ là công cụ thông tin mà còn là diễn đàn phản ánh tâm tư dân tộc, góp phần vào sự hình thành tư tưởng độc lập và khát vọng canh tân đất nước.
Chủ bút Phạm Quỳnh của Nam Phong tạp chí. (Ảnh: Hội Nhà văn)
Chủ bút Phạm Quỳnh của Nam Phong tạp chí. (Ảnh: Hội Nhà văn)
Một số đặc điểm của báo chí thời kỳ này
- Cách thức tổ chức hoạt động: vì sự kiểm duyệt của chính quyền thực dân, nên các tờ báo thường phải dựa vào người Pháp mới có thể in ấn và phát hành.
- Báo chí làm chính trị một cách gián tiếp: do thực dân Pháp thực hiện kiểm duyệt gắt gao mà hầu hết những tờ báo trong giai đoạn này muốn làm chính trị đều phải đi theo con đường vòng, gián tiếp như Gia Định báo, Nam Phong tạp chí…
- Báo đã có sự chuyên biệt về nội dung và đối tượng: thời kỳ này đã xuất hiện các tờ báo có những sự chuyên biệt về đối tượng như: báo dành cho phụ nữ, người kinh doanh…; chuyên biệt về nội dung: kinh tế, khoa học, văn học nghệ thuật…
- Sáng tạo tác phẩm báo chí: Đây là thời kỳ báo chí phát triển trong hoàn cảnh lịch sử với nhiều biến động và những bước ngoặt quan trọng, chính vì thế mà hiện thực đời sống phong phú đã trở thành chất liệu quan trọng trong sáng tạo tác phẩm. Tuy nhiên, có nhiều tờ báo đưa tin, viết bài hời hợt, thiếu khách quan chân thực, không gắn với thực tiễn, chưa đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân.
Báo chí Việt Nam giai đoạn 1865-1925, tuy còn chịu nhiều ràng buộc về thể chế, tài chính và kỹ thuật, song đã có những đóng góp nổi bật như: phổ cập chữ Quốc ngữ, thúc đẩy giáo dục dân tộc; hình thành không gian tri thức mới, tạo tiền đề cho báo chí chuyên ngành phát triển; khai mở tư tưởng dân chủ; góp phần xây dựng đội ngũ trí thức bản xứ. Nhưng báo chí cũng có một số hạn chế như: phụ thuộc vào nhà in Pháp, bị chi phối bởi tư tưởng thân Pháp ở một số tờ, nội dung đôi khi mang tính khai hóa hơn là đấu tranh triệt để.
Báo chí Việt Nam giai đoạn 1865–1925 là một quá trình đầy chuyển biến, từ mô hình công báo của chính quyền thực dân sang mô hình báo tư nhân phục vụ nhu cầu độc giả. Dù hoạt động trong khuôn khổ kiểm duyệt gắt gao và dưới ách đô hộ, báo chí vẫn phát huy vai trò giáo dục, phản ánh, định hướng và khai mở tri thức. Đây là thời kỳ đặt nền móng cho nền báo chí dân tộc hiện đại, là giai đoạn chuẩn bị cả về tư tưởng, kỹ thuật và đội ngũ cho báo chí cách mạng sau này. Từ những tờ báo đầu tiên ở Nam Kỳ, phong trào báo chí quốc ngữ lan rộng ra cả nước, trở thành công cụ mạnh mẽ trong công cuộc đấu tranh dân tộc, mở đường cho thời kỳ báo chí yêu nước và cách mạng rực rỡ sau năm 1930.
Xuất bản: 6/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH - PGS,TS ĐINH THỊ THU HẰNG
Nội dung: PGS,TS PHẠM THỊ THANH TỊNH
Biên tập: BÔNG MAI
Trình bày: VÂN THANH