
Từ nguồn mạch thẳm sâu của đại ngàn hùng vĩ
Bài và ảnh: UÔNG THÁI BIỂU
Câu chuyện mà tôi đang kể là về cuộc đời của hai người phụ nữ dân tộc thiểu số, một người thuộc dân tộc Brâu ở buôn Đắk Mế nơi Ngã ba biên giới Bờ Y cực bắc Tây Nguyên và một người thuộc dân tộc Mạ sống giữa buôn làng bên thượng nguồn Đồng Nai, cực nam Tây Nguyên. Trên hành trình tác nghiệp, tôi may mắn được kết giao với họ, được xúc động với những chiến công của họ trong quá khứ và từ đó đóng góp cho quê hương trong cuộc sống hôm nay. Từ hai người phụ nữ này, tôi được thêm minh chứng về một Tây Nguyên bất khuất mà dung dị, gần gũi mà thẳm sâu…

Ở vùng nam Tây Nguyên, nơi đầu nguồn con nước Đồng Nai (xã Đồng Nai Thượng, huyện Đạ Huoai, Lâm Đồng), tôi đã gặp bà Điểu Thị Lôi, người dân tộc Mạ mà đồng chí, đồng bào thân thương gọi là chị Năm Lôi. Người phụ nữ dáng dấp nhỏ bé ấy từng được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp 2 và đứng trong hàng ngũ của Đảng từ năm 18 tuổi.
Bà Năm Lôi cũng được cử tri tín nhiệm bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa VI, khóa đầu tiên sau ngày nước nhà thống nhất. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chiến binh Điểu Thị Lôi từng tham gia không biết bao nhiêu trận đánh, mang trên mình nhiều di chứng chiến tranh.
Bà Năm Lôi từng được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp 2 và đứng trong hàng ngũ của Đảng từ năm 18 tuổi.
Nhưng người phụ nữ nổi tiếng với những chiến công quả cảm tôi gặp hôm nay vẫn nở tươi nụ cười lạc quan dù đã ở tuổi 75 và mang nhiều bệnh tật trong người. Bà kể về những trận chiến đấu với kẻ thù xâm lược mà hồn nhiên như những người dân trong buôn thường kể chuyện về những chuyến vào rừng sâu săn bắn…
Bà Năm Lôi kể, khoảng cuối những năm 1960, làng buôn của bà là vùng đứng chân hoạt động của Khu ủy Khu VI nên quân Mỹ-Ngụy luôn tổ chức càn quét, hòng tiêu diệt các lực lượng ta. Ngày đó, địch lập sân bay dã chiến ngay giữa đỉnh đèo Bờxa Luxiêng, chúng dùng trực thăng vận mang khí tài, chiến xa lên đây để đánh phá căn cứ, lùng bắt cán bộ và chặn con đường hành lang chiến lược bắc-nam. Đảng viên, cựu du kích Điểu Thị Lôi đã cùng bộ đội, du kích và đồng bào các buôn làng bám trụ với rừng già Cát Tiên, kiên cường chiến đấu hàng chục năm ròng rã cho đến ngày chiến thắng. Trung ương Cục miền nam, Chiến khu D và Khu ủy Khu VI đã được đồng bào Mạ, Stiêng bảo vệ đến cùng.
Bà Điểu Thị Lôi đọc báo Nhân Dân hằng ngày để tuyên truyền cho bà con con buôn làng.
Bà Điểu Thị Lôi đọc báo Nhân Dân hằng ngày để tuyên truyền cho bà con con buôn làng.
Ký ức của người phụ nữ Mạ có tính cách hào sảng như mây núi gió rừng này không chỉ là chiến tích mà còn là những hy sinh, mất mát không thể nào bù đắp của đồng chí, đồng bào. Riêng mười buôn người Mạ quê hương của Điểu Thị Lôi có 15 người hy sinh anh dũng và 15 người bị thương trong chiến đấu.
Ngồi với chúng tôi trong buổi chiều của 50 năm sau ngày nước nhà thống nhất, nữ cựu Dũng sĩ diệt Mỹ hào hứng kể về một trận đánh in sâu trong ký ức thời cầm súng của bà: “Trong thời kỳ triển khai Chiến lược chiến tranh cục bộ, địch điều lên đây hơn 40 tên lính Mỹ và lính đánh thuê đặt chốt án ngữ ngay trên tuyến hành lang chiến lược bắc-nam. Một đêm, nắm được tin có cán bộ ta vào buôn móc nối với đồng bào, địch cho quân vây ráp với âm mưu thảm sát cả buôn làng. Trước tình hình hết sức hiểm nguy, cán bộ kháng chiến và đội du kích đã mai phục đánh chặn hậu cho bà con tản vào rừng lánh nạn”.
Ký ức của người phụ nữ Mạ có tính cách hào sảng như mây núi gió rừng này không chỉ là chiến tích mà còn là những hy sinh, mất mát không thể nào bù đắp của đồng chí, đồng bào.
Thế rồi, địch xua quân truy kích nhưng không bắt và giết được người nào, nhưng khoảng một giờ sau, chúng quay lại đốt cháy nhà cửa và bắn đàn gia súc. Tiếc tài sản của đồng bào, đội trưởng du kích Điểu Đoi và nữ du kích Điểu Thị Lôi đã quay lại nã súng vào đội hình địch và xua đàn trâu, bò của đồng bào chạy vào rừng sâu. Bà Năm Lôi nhớ lại: “Tôi và bác Điểu Đoi chỉ có hai khẩu súng trường nhưng vẫn thay nhau nhả đạn và luồn lách lắt léo trong rừng để dụ địch sa xuống hầm chông. Trận ấy, chúng tôi diệt được mười tên da trắng!”.
Sau trận đánh đầy mưu trí, dũng cảm này, du kích Điểu Thị Lôi được Phó Tổng Tư lệnh Quân giải phóng Nguyễn Thị Định gửi tặng chiếc khăn rằn và khẩu súng ngắn. Bà coi đó là nguồn động viên to lớn, đã khắc ghi vào tâm khảm suốt cả đời mình…
Những người trẻ Tây Nguyên hôm nay.
Những người trẻ Tây Nguyên hôm nay.
Trò chuyện với chúng tôi, ký ức của Điểu Thị Lôi về một thời binh lửa vẫn như còn tươi mới dù hòa bình trở về trên quê hương đã nửa thế kỷ. Bà gửi gắm những lời tâm huyết với lớp trẻ hôm nay: “Ngày xưa chúng tôi từng cầm súng, vót chông giữ lấy buôn làng, còn bây giờ lại cùng lớp con cháu tiếp tục gánh vác trách nhiệm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, đồng bào ấm no, hạnh phúc. Tôi nghĩ rằng, các tộc người Tây Nguyên một lòng kính yêu Bác Hồ, vững niềm tin theo Đảng thì không có khó khăn nào mà không thể vượt qua!”.
Tôi nghĩ rằng, các tộc người Tây Nguyên một lòng kính yêu Bác Hồ, vững niềm tin theo Đảng thì không có khó khăn nào mà không thể vượt qua!
Bà Điểu Thị Lôi


Ở vùng bắc Tây Nguyên, tôi lại được ngồi nghe câu chuyện cuộc đời hoạt động cách mạng của nữ già làng Y Pan, một đảng viên gạo cội người dân tộc Brâu. Đến nay, bà Y Pan đã có tuổi hơn chín mươi mùa rẫy nhưng vẫn giữ vai trò cốt cán trong chi bộ, trong buôn làng, là nữ già làng của tộc người Brâu ở buôn Đắk Mế (xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, Kon Tum).
Trong chiều mưa giữa buôn làng biên giới, nữ già làng Y Pan đã kể tôi nghe về hành trình hoạt động của hai vợ chồng bà; từ thời tuổi trẻ giác ngộ lý tưởng trong kháng chiến, những tháng năm trên đất bắc và xung phong về nam chiến đấu cho đến ngày quê hương thanh bình. Đó là một hành trình bền bỉ, lâu dài, một lòng theo cách mạng, theo lý tưởng cao quý của cuộc đời.
Nữ già làng Y Pan người Brâu của làng Đắk Mế.
Nữ già làng Y Pan người Brâu của làng Đắk Mế.
Bà Y Pan kể, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, buôn Đắk Mế nằm trên địa bàn chiến lược của Ngã ba Đông Dương, nơi tiếp giáp các nước bạn Lào, Campuchia với Việt Nam, nên bị ảnh hưởng nghiêm trọng sau mỗi trận địch thả bom, càn quét. Bố mẹ của Y Pan đã mất trong một trận ném bom của địch.
Mồ côi cả cha lẫn mẹ khi vừa tròn 4 tuổi, Y Pan được một đơn vị bộ đội nuôi dưỡng. Lớn lên, bà tham gia hoạt động cách mạng. Thấy bà sáng dạ nên tổ chức đã cho cô gái Brâu tập kết ra bắc để học ngành y. Trong khoảng thời gian dài từ năm 1959 đến những ngày đất nước sắp vào chiến dịch lớn, bước chân Y Pan đã trải qua nhiều vùng quê đất bắc, công tác ở nhiều đơn vị khác nhau từ Nghệ An, Điện Biên, Sơn La, Hà Đông. Đến năm 1974, bà trở về phục vụ cuộc kháng chiến tại chiến trường Tây Nguyên; chồng bà thì đã về miền nam chiến đấu trước đó.
Già làng Y Pan nhớ lại: “Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đồng bào Brâu đã cùng nhau đoàn kết giúp đỡ bộ đội, gùi vũ khí, lương thực xuyên qua những cánh rừng biên giới phục vụ chiến trường. Thanh niên khỏe mạnh thì hăng hái tham gia chiến đấu. Ngày ấy nhiều người bị thương lắm, từ những kiến thức học được, già đã chữa trị vết thương cho hàng trăm bộ đội, người dân ở vùng biên giới Ngọc Hồi”.
Nữ già làng Y Pan trò chuyện việc buôn làng với cán bộ Đồn biên phòng Cửa khẩu quốc tế Bờ Y.
Nữ già làng Y Pan trò chuyện việc buôn làng với cán bộ Đồn biên phòng Cửa khẩu quốc tế Bờ Y.
Đó là chuyện của một thời vệ quốc, còn hôm nay, nữ già làng Y Pan là đại diện cho những người Brâu tiên tiến. Hòa bình, bà Y Pan tiếp tục công tác trong ngành y tại tỉnh Kon Tum cho đến ngày nghỉ hưu.
Nghỉ hưu nhưng tâm lực bà vẫn dành cho đồng bào, cho xứ sở của mình. Bà trở thành chỗ dựa của buôn làng, làm cầu nối cho các gia đình, các dân tộc cùng sinh sống đoàn kết, dựng xây, phát triển quê hương.
Y Pan là hiện thân của một đảng viên, một trí thức, một người Brâu chân chính.
Y Pan là hiện thân của một đảng viên, một trí thức, một người Brâu chân chính khi góp sức cùng đồng chí, đồng đội vận động đồng bào mình thay đổi tư duy phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, bài trừ các tập quán, hủ tục lạc hậu, thực hiện nếp sống văn minh, đoàn kết, không nghe theo lời kẻ xấu xúi giục.
Trong câu chuyện, già làng Y Pan cũng xúc động nói với tôi những lời gan ruột về dân tộc của bà, về sức sống, về hành trình sinh tồn và bản sắc văn hóa của một tộc người chỉ có 173 hộ dân với 558 nhân khẩu…

Từ câu chuyện cuộc đời của những nữ đảng viên lão thành, những cựu chiến binh can trường như bà Y Pan, bà Điểu Thị Lôi, tôi cảm nhận truyền thống anh hùng trên vùng đất đại ngàn mãi mãi được đắp bồi. Truyền thống ấy là mạch nguồn thẳm sâu như dòng sông Đồng Nai mãi chảy, lớp sóng sau nối dồn muôn sóng trước; như đỉnh núi Ngọc Linh vời vợi, phong nhiêu, vững chãi và kiên trung. Núi còn đó, sông vẫn đây, ký ức về một thời oanh liệt vẫn hiện hữu trong mỗi tấc đất, cây rừng và trong đáy mắt của những người phụ nữ dân tộc thiểu số Tây Nguyên đã hiến trọn đời mình cho độc lập, tự do của Tổ quốc.
Trình bày: Ngô Hương