NDO - Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Khi Pháp chiếm được Bạch Mai và Cầu Mới, báo Cứu Quốc của mặt trận Hà Nội sát nhập với báo Cứu Quốc Trung ương đóng ở Vân Đình. Tôi tham gia bộ đội Vệ quốc quân, lúc đó người đủ tuổi nào cũng nghĩ là cầm súng hiệu quả hơn cầm bút.

------------------

THÉP MỚI

BÁO SỰ THẬT KHÁNG CHIẾN XUẤT BẢN DƯỚI CHÂN NÚI HỒNG

Khi Tây đánh rộng ra mặt trận phía Tây Hà Nội, cơ quan Trung ương bắt đầu vượt sông Hồng lên trung du rồi vào Việt Bắc, đơn vị tôi bảo vệ căn cứ của quân khu, thuộc vùng Thạch Thất, thì gặp anh Trường Chinh ở trạm gác đầu làng cùng với anh Võ Nguyên Giáp đi xe ô-tô tới. Thấy tôi, anh phê bình liền: “Ai cho anh vào bộ đội?”. Có lẽ anh nghĩ tôi cũng ham đeo sao, đeo súng ngắn như đa số thanh niên học sinh thời bấy giờ. Anh chỉ thị cho tôi xin phép chính ủy quân khu về ngay Tuyên Quang và làm báo Sự Thật.

Đến Bình Ca trên Sông Lô tôi đã được trông thấy tận mắt công việc lao động anh hùng của các anh em công nhân nhà in ta chuyển vận máy lên rừng, bắt đầu xây dựng nhà in dã chiến trong rừng rậm. Cái khác nhau giữa cơ quan ấn loát của báo Cờ Giải Phóng bí mật và cơ quan ấn loát của báo Sự Thật kháng chiến là một trời một vực. Ta có hai cơ sở ấn loát, một ở Khuôn Câm chợ Chu, ở chân phía Đông Nam núi Hồng, một ở ngã ba Lò Gâm, ở phía sườn trông về hướng Tây Bắc của núi Hồng. Cũng trong năm 1947, ta lập xưởng giấy Lửa Việt bên Ấm Thủy trên Sông Thao. Cơ sở hậu cần của báo to lớn hơn trước nhiều.

Báo Sự Thật, số 15 là số đặc biệt về Tết Bính Tuất. Ngoài chức năng là cơ quan tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối cách mạng của Đảng, trong số báo này có đăng bài thơ cổ động của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bao giờ kháng chiến thành công/Chúng ta cùng uống một chung rượu đào/Tết này ta tạm xa nhau/Chắc rằng ta để tết sau sum vầy!”. Ảnh tư liệu

Báo Sự Thật, số 15 là số đặc biệt về Tết Bính Tuất. Ngoài chức năng là cơ quan tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối cách mạng của Đảng, trong số báo này có đăng bài thơ cổ động của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bao giờ kháng chiến thành công/Chúng ta cùng uống một chung rượu đào/Tết này ta tạm xa nhau/Chắc rằng ta để tết sau sum vầy!”.

Báo Sự Thật, số 15 là số đặc biệt về Tết Bính Tuất. Ngoài chức năng là cơ quan tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối cách mạng của Đảng, trong số báo này có đăng bài thơ cổ động của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bao giờ kháng chiến thành công/Chúng ta cùng uống một chung rượu đào/Tết này ta tạm xa nhau/Chắc rằng ta để tết sau sum vầy!”.

Nhưng tòa soạn báo, do điều kiện các cơ quan của Trung ương còn đang trong quá trình xây dựng lại nên nhỏ hơn hồi Hà Nội nhiều. Công việc trình bày, xuất bản, trông nom ấn loát có một mình tôi. Cơ quan Tổng Bí thư là một nhà dân ở gần chợ Quảng Nạp, lối đi vào đèo Re và đèo Khuôn Tắt thuộc núi Hồng. Bên cạnh nhà anh Trường Chinh là nhà anh Lê Văn Lương, tôi có một giường tre và một cái bàn tre nhỏ ở đó. Báo ra liên tục, mười ngày một số, anh Trường Chinh viết xã luận và loạt bài quan trọng Trường kỳ kháng chiến. Tôi viết các bài lặt vặt khác và đặc biệt phóng xe đi làm phóng sự chiến trường hết mặt trận Hà Nội, Hà Đông có vốn sẵn, đến mặt trận Đường số 5, mặt trận Sông Đuống Bắc Ninh, mặt trận Đông Triều Hồng Quảng, trận tây nhảy dù Phú Thọ, đời sống đồng bào tản cư. Đó là những nét ghi nhanh về nửa năm đầu kháng chiến. Anh Trường Chinh chỉ vấn đề để tôi đi viết và tôi hiểu ý anh là một tờ báo tỏ rõ sức mạnh ở chỗ liên hệ với thực tế, nhất là thực tế chiến đấu và khí thế đánh giặc của các chiến trường.

...tôi hiểu ý anh là một tờ báo tỏ rõ sức mạnh ở chỗ liên hệ với thực tế, nhất là thực tế chiến đấu và khí thế đánh giặc của các chiến trường.

Đến tháng 6-1947, có Hội nghị cán bộ do Trung ương triệu tập sơ kết 6 tháng kháng chiến toàn quốc đầu tiên, nhận định là đồng bằng tả ngạn Sông Hồng nhất là mặt trận Đường số 5 đánh giỏi, tôi được cử đi theo đoàn đại biểu khu 3 vượt đường số 5, sống với các đơn vị bộ đội và du kích và viết loạt bài Sức mạnh từ đất dấy lên biểu dương “hầm bí mật” và cuộc chiến đấu của đồng bào nông dân giữ vững sản xuất bất chấp bom đạn địch...

Tôi nhắc lại giai đoạn làm báo hai người này để thấy cái khác với thời bí mật là ở chức năng chỉ đạo bao giờ cũng sắc bén rồi, nhưng cộng vào chức năng định hướng phải phát huy cao chức năng phản ánh thực tế và điều này quan trọng, do đời sống kháng chiến sinh hoạt phân tán, không có đô thị tập trung, người đọc cần thông tin, cần hơi thở của cuộc sống, cần một sự đồng cảm với toàn thể xã hội chiến đấu.

Suốt đời, ăn cơm vắt, uống nước lã, đi chân đất mà viết phóng sự

Tôi nhớ khi anh Xuân Trường được điều về làm việc với anh Trường Chinh, anh Xuân Trường có ý chuyên làm tuyên huấn, trao tờ báo cho tôi thì anh Trường Chinh dắt tôi vào rừng, làm công tác tư tưởng cho tôi, có ý kiến rất sáng suốt, bảo tôi: “Anh suốt đời chỉ nên làm phóng viên, đừng nên làm lãnh đạo bao giờ”. Một dịp khác, rất cao hứng, tôi bảo: “Suốt đời, ăn cơm vắt, uống nước lã, đi chân đất mà viết phóng sự”...

VINH QUANG VÀ KHỔ SỞ CỦA NGHỀ LÀM BÁO Ở RỪNG

Bác Hồ là người đầu tiên làm báo ở rừng ở nước ta. Đó là tờ Việt Nam độc lập. Tôi có nghiên cứu về thời kỳ đặc biệt này, thấy tờ báo có một đời sống gắn chặt với phong trào quần chúng có tác dụng sống động với sinh hoạt tinh thần của một khối lượng đồng bào cụ thể sản xuất và đấu tranh trên một địa bàn cụ thể. Sau này, trong kháng chiến, Nam Cao cùng với Tô Hoài lại tiếp tục tờ Việt Nam độc lập này ở chợ Re (Bắc Cạn), có viết những trang rất hay trong ký sự Ở rừng của Nam Cao nhưng viết chỉ mới thấy nên thơ nhiều.

   Báo Việt Nam Độc Lập, số 101, ra ngày 1/8/1941.

Đời tôi hai lần làm báo ở rừng: Một lần làm báo Sự Thật và Nhân Dân ở Việt Bắc, một lần làm báo Giải Phóng, cơ quan Trung ương của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ở rừng miền Đông Nam Bộ và Đông Bắc Cam-pu-chia nên thấm thía quang vinh và khổ sở nghề làm báo ở rừng.

Ở rừng là ở sâu, ở kín, đi tới cơ quan còn bao nhiêu trạm gác. Dân chỉ có đôi ba nhà lẻ tẻ, kinh tế tự cấp, tự túc. Sự liên hệ với bên ngoài chỉ thông qua hệ thống giao liên do anh Mười Hương tổ chức, sau trao lại cho Trần Triệu và Trần Thủy tức là anh Trần Văn Đắc ở Ủy ban Kiểm tra Trung ương bấy giờ. Tôi đặc biệt thích ra ở trạm giao liên này, bác Tôn Đức Thắng cũng thế, bác Tôn đã ở tù 15 năm Côn Đảo nên rất khát khao nghe “tiếng đời lắm”. Ở rừng, “tiếng đời” như không có nữa.

Tôi vụt hiểu tất cả cái hạn chế đối với toàn bộ đời sống tinh thần của mình, trước cả khi Xuân Diệu làm thơ gọi chiến khu là “U tì quốc”, trước cả khi Nguyễn Tuân viết về Việt Bắc là “Thiếu chân trời”, đó là do một hôm họp ngành tuyên huấn trung ương, gồm Nha thông tin của anh Hoàng Tuấn, Đài phát thanh của anh Trần Lâm, Tuyên huấn quân đội là anh Lưu Văn Lợi và một số anh nữa - họp trên một nhà sàn bị tây đốt cháy, còn trơ mấy dây cột đen thui - Họp xong, anh Trường Chinh ngồi lại với anh Xuân Trường và tôi, nghỉ một lát để cùng về cơ quan.

Bỗng anh Trường Chinh thốt lên một điều tâm sự:

- Từ ngày lên rừng, mình cảm thấy càng ngày càng mất hết fraicheur (cái tươi mới của tư duy, của tình cảm).

Hồi tưởng lại những chặng đường báo chí như Dân chúng, như Tin tức, thậm chí cả thời kỳ Thanh niên, không nói đến Cờ Giải Phóng bí mật và công khai, thử thách và nhiều sôi động, càng thấy làm báo trong điều kiện có chính quyền mà phải lui vào rừng sâu, cách ly với đời sống, càng thấy tất cả khó khăn của một tư duy chỉ đạo, cần có sôi nổi bên trong, để tự mình không trì trệ, tôi nêu lại đặc điểm này để ta thấy hết thuận lợi và ưu việt của hôm nay.

Khó khăn gay gắt nhất là vấn đề thông tin.

Khó khăn gay gắt nhất là vấn đề thông tin. Lúc ấy đài thu thanh đến cả Trung ương cũng không có. Tôi nhớ mãi năm 1947, khi Pháp cử thượng sứ Bô-la-éc sang thay Đác-giăng-li-ơ, Bô-la-éc đọc bài diễn văn nổi tiếng ở Hà Đông để tuyên bố chính sách mới. Để viết bài trên báo kịp thời đập lại Bô-la-éc, anh Trường Chinh phải cho người ra phục sẵn ở Đại Từ trên trục lộ giao thông lớn, cách Quảng Nạp 28 cây số, để đón giao liên của Nha thông tin - tiền thân của TTXVN - mang toàn văn bài diễn văn nói trên thu được bằng điện đài đặt ở tận Bắc Kạn, cách Đại Từ 120 km.

Tôi có thể kể rất nhiều thí dụ về sự đau khổ của thông tin khó khăn như vậy.

Ngay thông tin nội bộ cơ quan báo cũng khó. Đồng chí phụ trách bận trăm công nghìn việc, ở một chỗ kín khuất nhất trong rừng, không dễ mỗi chốc gặp được, có phân công viết bài, cũng chỉ nói về việc đó thôi mấy khi có thời gian truyền đạt tình hình và nhiệm vụ và đón nhận thông tin phản hồi, như trong các cuộc sinh hoạt ở các cơ quan báo chính quy bây giờ. Mọi cách nắm chủ trương, đường lối, sự phát triển của chiến sự cũng như các ngành hoạt động của kháng chiến đều là do cán bộ và phóng viên báo tự mình phát huy năng động chủ quan mầy mò là chính.

Báo cáo chính thức mấy khi được sờ đến vì nguyên tắc bí mật rất nghiêm. Sách báo không có mà đọc bao nhiêu tuy ở cơ quan trung ương là có nhiều sách báo nhất. Mãi đến năm 1952, toàn bộ căn cứ của Trung ương đóng mới có thư viện đầu tiên, đặt ngay dưới cây đa Tân Trào, do đồng chí Hà, chồng sau này của chị Định cơ quan ta đã về hưu phụ trách.

Đói và sốt rét cũng làm giảm sút sức làm việc nhiều. Tôi nhớ có đồng chí đánh máy nửa chừng ngã vật ra, run lên cầm cập vã mồ hôi, qua cơn sốt, lại đánh tiếp. Đặc biệt, năm 1949, căn cứ không có gạo, ăn toàn ngô bung và ăn nhá từng hột, không có muối. Đời sống tập trung, giáp mặt nhau hai mươi bốn tiếng đồng hồ trên hai bốn tiếng đồng hồ - kiểu trại lính - thừa tình cảm mà cũng vô cùng là thiếu tình cảm. Trải qua một quãng đời sống hàng năm bảy năm gần như đi tù - rất không bình thường - mà thần kinh ai cũng còn thăng bằng, tình người và tinh thần lạc quan vẫn có được, phải nói đến sức mạnh tinh thần phi thường của kháng chiến.

Trong những tổn thất của báo ta, tôi tiếc nhất là anh Thôi Hữu, không phải chỉ vì tài năng, mà vì anh là một người cộng sản làm văn học và làm báo vào Đảng từ năm 1942, nhưng bản thân có thực tiễn viết và sáng tác, hiểu con người làm nghề viết hơn tất cả. Lại là thợ điện, công nhân 100% không ai bảo là tiểu tư sản được. Lúc đó anh có tầm suy nghĩ, có bản lĩnh, có thế trong Đảng, đề đạt nghiêm túc những vấn đề đúng đắn về chính sách cán bộ. Trước khi anh mất, tạm chia tay nhau lúc tôi chuẩn bị ra đi nước ngoài, suốt cả một đêm anh cứ bảo tôi: “Mày đi Liên Xô, Trung Quốc, mày chú tâm xem hộ cho tao chủ nghĩa xã hội giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể như thế nào?”.

Tôi thấy anh nhìn thấy vấn đề trước chúng ta gần bốn thập kỷ. Thôi Hữu mất đi vào một thời điểm đáng tiếc nhất. Đó là lúc tờ Sự Thật đang ra những số cuối cùng và tờ Nhân Dân đang chuẩn bị ra đời. Đó cũng là lúc mà trong đời sống tư tưởng của Đảng và xã hội ta, do tác động của cuộc kháng chiến tiến lên giai đoạn quyết liệt hơn, tập trung cao độ để quyết thắng và cũng do ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng đang thắng thế về phía quốc tế, với thắng lợi quá lớn của cách mạng Trung Hoa, “mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể” - như Thôi Hữu băn khoăn - đã được giải quyết trên thực tế bằng chỉnh huấn.

--------------------------

(Bài viết đã đăng trên Nhân Dân Điện tử ngày 13/3/2013)
Ngày xuất bản: 5/2025
Trình bày: NGỌC DIỆP
Ảnh: TTXVN, Bảo tàng Lịch sử quốc gia