Bài 2: Tạo đột phá từ cơ chế, chính sách

Động lực mới cho tăng trưởng nông nghiệp

Tạo lập hành lang pháp lý đổi mới sáng tạo đến cơ chế phát huy vai trò kinh tế tư nhân đang trở thành yếu tố “dẫn đường mở lối” cho nông nghiệp Việt Nam “cất cánh”.

Sơ chế sầu riêng xuất khẩu tại Công ty Vina T&T Group. (Ảnh: Minh Anh)
Sơ chế sầu riêng xuất khẩu tại Công ty Vina T&T Group. (Ảnh: Minh Anh)

Công nghệ và chuyển đổi số đã mang lại sự phát triển vượt bậc của nhiều ngành hàng thời gian qua, nhưng để động lực mới này tạo ra sự bứt tốc ngoạn mục của toàn ngành nông nghiệp thì cần hệ thống chính sách đồng bộ và linh hoạt. Tạo lập hành lang pháp lý đổi mới sáng tạo đến cơ chế phát huy vai trò kinh tế tư nhân đang trở thành yếu tố “dẫn đường mở lối” cho nông nghiệp Việt Nam “cất cánh”.

Theo Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), hiện nay, hệ thống văn bản về hoạt động khoa học- công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp còn thiếu đồng bộ, trình tự thủ tục phức tạp. Nhiều chính sách khuyến khích xã hội hóa và thu hút đầu tư cho nghiên cứu khoa học còn thiếu sức hút, chưa tạo ra hành lang pháp lý đủ rõ ràng để doanh nghiệp mạnh dạn tham gia.

Đưa nghiên cứu vào thực tế

Theo Tiến sĩ Đỗ Tiến Phát - Trưởng phòng Công nghệ tế bào thực vật, Viện Sinh học (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam), với sự phát triển của khoa học-công nghệ, tiềm năng trong cải tạo năng suất, chất lượng cây trồng và vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn rất lớn. Cụ thể như sự phát triển của hệ thống chỉnh sửa gien CRISPR/Cas, Prime Editing... có thể thay đổi, chỉnh sửa bất kỳ các trình tự DNA nào trong hệ gien ở mức độ chính xác cao.

Điển hình là tính trạng kháng bệnh vi-rút trên cây thuốc lá (PVY), đu đủ (PRSV); các dòng cà chua, lúa có giá trị dinh dưỡng cao... đã được tạo ra bằng công nghệ này. Tuy nhiên hiện nay, không chỉ có sản phẩm của công nghệ chỉnh sửa gien mà rất nhiều các sản phẩm khoa học-công nghệ khác thường bị “hụt hơi” ở những bước cuối cùng để hoàn thành sản phẩm và đưa vào ứng dụng thực tế.

Nguyên nhân là do nguồn kinh phí được cấp cho nghiên cứu hạn hẹp và không liên tục. Việc này dẫn tới nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những kết quả bước đầu, khó đi tới các sản phẩm hoàn thiện và có tính ứng dụng cao. Ngoài ra, việc thiếu các chính sách rõ ràng về việc quản lý và sử dụng các sản phẩm công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp cũng là rào cản đối với quá trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng.

Vụ trưởng Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Nguyễn Văn Long cho rằng, hiện nay chưa có nhiều sản phẩm khoa học-công nghệ được thương mại hóa, các giao dịch mua-bán sản phẩm khoa học-công nghệ trên thị trường còn đơn điệu; kết quả nghiên cứu chưa được ứng dụng nhiều trong sản xuất, kinh doanh; chưa hình thành các chương trình hỗ trợ thương mại hóa kết quả khoa học-công nghệ theo chuỗi...

Trong khi đó, chi ngân sách nhà nước đầu tư chung cho khoa học-công nghệ chỉ chiếm 0,6% GDP; chi ngân sách trong ngành nông nghiệp và môi trường chỉ ở mức 0,21% GDP của ngành.

Vì vậy thời gian tới, cơ quan chức năng cần hoàn thiện quy định về Quỹ Phát triển khoa học-công nghệ của Bộ Nông nghiệp và Môi trường để có đủ nguồn lực và chủ động trong xây dựng kế hoạch nhiệm vụ.

Tiến sĩ Võ Hữu Thoại, Viện trưởng Viện Cây ăn quả miền nam cho rằng, công nghệ tạo ra giống cây ăn quả kéo dài từ 15- 20 năm cho nên cần có chính sách đầu tư cho các chương trình dài hạn; tăng cường đầu tư kinh phí để thu thập, bảo tồn nguồn gien phục vụ công tác chọn tạo giống, nhất là các nguồn gien từ nước ngoài. Liên quan thương mại hóa kết quả, các cơ quan quản lý nhà nước cần rà soát, điều chỉnh thống nhất các văn bản pháp luật như: Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Chuyển giao công nghệ; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công...

Thúc đẩy "đầu tàu" kinh tế tư nhân

Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang Lê Hữu Toàn, thời gian qua, tỉnh đã liên tục mở rộng diện tích trồng lúa theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp lớn. Với Đề án “Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” (Đề án), vai trò của doanh nghiệp càng thể hiện rõ nét trong toàn chuỗi giá trị, nhất là liên kết cung cấp vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.

Là một trong những hộ dân thực hiện mô hình đầu tiên của tỉnh Kiên Giang theo Đề án, anh Võ Văn Những (xã Tân Hội, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang) cho biết, chính sự liên kết giữa các hộ dân, hợp tác xã với doanh nghiệp đã tạo ra lợi nhuận lớn cho nông dân trồng lúa giảm phát thải. Cụ thể vụ đông xuân 2024-2025 vừa qua, mức lợi nhuận đạt hơn 31 triệu đồng/ ha, cao hơn khoảng 5 triệu đồng/ha so với ngoài mô hình.

Theo bà Ngô Thị Thu Hồng- Tổng Giám đốc Công ty Ameii Việt Nam, Công ty đã liên kết hợp tác với nhiều nhà trồng, nhà sản xuất trong nước nhằm phát triển đồng bộ, xây dựng chuỗi thực phẩm khép kín từ vùng nguyên liệu đến chế biến, xuất khẩu. Tuy nhiên, việc đầu tư kho lạnh, chế biến và vận chuyển, logistics đòi hỏi phải ứng dụng công nghệ cao, thực hiện chuyển đổi số trong tất cả các khâu nên doanh nghiệp rất cần được tiếp cận nguồn tín dụng ưu đãi và các chính sách hỗ trợ.

Thực tế hiện nay nhiều doanh nghiệp đang gặp những “điểm nghẽn” như: Hạn chế về cơ chế thí điểm cho mô hình mới, trong đó có tín dụng xanh, thương mại các-bon trong nông nghiệp, mô hình chia sẻ giá trị giữa các chủ thể trong chuỗi; hay rào cản từ việc khó tiếp cận các nguồn lực đầu tư dài hạn trong khi các mô hình nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp thông minh cần thời gian để tích lũy dữ liệu, kiểm chứng hiệu quả và đạt quy mô lớn.

Chính vì vậy, một trong các nhiệm vụ, giải pháp Bộ Nông nghiệp và Môi trường đưa ra để đạt mục tiêu tăng trưởng 4% trở lên trong năm 2025 là hoàn thiện thể chế, chính sách phục vụ tăng trưởng ngành.

Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy cho biết, sẽ đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định pháp luật để bảo đảm hành lang pháp lý cho hoạt động của ngành nông nghiệp, hỗ trợ hợp tác xã, doanh nghiệp, người dân về chính sách tín dụng, thuế, bảo hiểm nông nghiệp, đất đai phục vụ phát triển sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn.

Bộ sẽ xây dựng chính sách hỗ trợ bảo đảm doanh nghiệp kinh doanh trong trường hợp thị trường biến động; nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ miễn, giảm tiền thuê đất cho doanh nghiệp đầu tư kho bãi và hệ thống logistics.

Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các đơn vị liên quan hoàn thiện các cơ chế, chính sách để hỗ trợ các dự án xanh, thúc đẩy tín dụng xanh và đầu tư vào các ngành kinh tế thân thiện với môi trường.

Nhiều năm nay, nông nghiệp Việt Nam luôn đóng vai trò trụ đỡ nền kinh tế, nhất là trong những thời điểm khó khăn của kinh tế toàn cầu. Đến thời điểm này, với những động lực mới từ khoa học-công nghệ, chuyển đổi số, nhất là một hệ thống chính sách thật sự đồng hành, nông nghiệp Việt Nam sẽ được kiến tạo như một ngành kinh tế hiện đại, có khả năng cạnh tranh, vươn tới những cột mốc tăng trưởng mới, đóng góp cao hơn vào tăng trưởng toàn ngành kinh tế.

Có thể bạn quan tâm

back to top