“Hãy để các trường đại học cạnh tranh bằng chất lượng và hiệu quả!”

Dự kiến, dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) sẽ được trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào tháng 8 tới. Lần sửa đổi này, Bộ Giáo dục và Đào tạo mong muốn tạo ra hành lang pháp lý, một môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các cơ sở giáo dục đại học.

Tiết học công nghệ của sinh viên Trường đại học Thái Nguyên. Ảnh: SONG ANH
Tiết học công nghệ của sinh viên Trường đại học Thái Nguyên. Ảnh: SONG ANH

Phóng viên đã có cuộc trao đổi ý kiến với PGS, TS Hoàng Minh Sơn, Thứ trưởng Giáo dục và Đào tạo về vấn đề trên.

31.jpg
PGS, TS Hoàng Minh Sơn, Thứ trưởng Giáo dục và Đào tạo.

Phóng viên (PV): Thứ trưởng có thể chỉ ra những chính sách quan trọng trong dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) vừa nhằm khắc phục những điểm nghẽn, khó khăn, vướng mắc lớn trong quá trình thực hiện thời gian qua cũng như thể hiện tinh thần đổi mới, đáp ứng những yêu cầu trong giai đoạn mới?

PGS, TS Hoàng Minh Sơn: Có sáu nhóm chính sách quan trọng của dự án luật sửa đổi: Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, kiến tạo hệ thống quản trị đại học tiên tiến; hiện đại hóa chương trình và phương thức tổ chức đào tạo, ứng dụng công nghệ tiên tiến và thúc đẩy học tập suốt đời; định vị cơ sở giáo dục đại học là trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo gắn với đào tạo nhân lực chất lượng cao; tăng cường huy động các nguồn lực và nâng cao hiệu quả đầu tư hiện đại hóa giáo dục đại học, hợp tác quốc tế bình đẳng; phát triển đội ngũ giảng viên, nhà khoa học xuất sắc và môi trường học thuật sáng tạo, liêm chính; đổi mới cách thức tiếp cận quản trị chất lượng trong hoạt động bảo đảm chất lượng giáo dục đại học.

PV: Cùng với việc tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học, dư luận quan tâm đến hoạt động kiểm định chất lượng. Kèm theo đó là mức độ tin cậy của các kết quả đánh giá, công nhận tiêu chuẩn chất lượng? Ông có thể nhìn nhận như thế nào về vấn đề này?

PGS, TS Hoàng Minh Sơn: Hoạt động kiểm định nằm trong hệ thống chung về quản lý chất lượng. Luật Giáo dục đại học năm 2018 quy định rất rõ việc xã hội hóa công tác giám sát chất lượng thông qua cơ chế kiểm định, tạo ra sự thay đổi lớn trong cách nhìn nhận, tư duy về bảo đảm chất lượng. Đặc biệt khi các cơ sở giáo dục đại học được giao tự chủ thì vấn đề này đòi hỏi gắn kết chặt chẽ với kiểm định. Tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình và một trong những biện pháp thực hiện giải trình đó là kiểm định, giải trình với xã hội.

Tuy nhiên, Luật trao quyền cho các tổ chức kiểm định thực hiện việc tổ chức đánh giá ngoài và thành lập hội đồng để xem xét, công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học. Các nội dung trong kiểm định chất lượng đại học mới dừng lại ở bề ngoài, mang tính liệt kê các công việc, các thứ cần có mà chưa đi vào thực chất, hiệu quả của việc quản lý đào tạo. Điều đáng nói là, mặc dù đã có những quy định về kiểm tra, thanh tra và giám sát, đánh giá hoạt động của các tổ chức kiểm định, tuy nhiên, thực tế cho thấy chưa có cơ chế quản lý nhà nước hữu hiệu để bảo đảm mức độ tin cậy của các kết quả đánh giá, công nhận tiêu chuẩn chất lượng.

PV: Vậy, việc sửa Luật lần này có thay đổi gì trong cách thức tiếp cận quản trị chất lượng trong hoạt động bảo đảm chất lượng giáo dục đại học?

PGS, TS Hoàng Minh Sơn: Dự thảo luật sửa đổi sẽ hướng đến việc đổi mới công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học theo cách tiếp cận quản trị rủi ro và tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với công tác bảo đảm chất lượng. Trong đó có một số nội dung đáng chú ý như: Kiểm định cơ sở giáo dục đại học là bắt buộc, được thực hiện định kỳ hoặc theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền; quy định rõ thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát, thẩm định kết quả, yêu cầu tổ chức kiểm định hủy bỏ, hoặc thay đổi kết quả kiểm định nếu có gian lận, tiêu cực hoặc khi kết quả thẩm định khác biệt nhiều so với kết quả kiểm định, xếp hạng đã công bố…

PV: Có ý kiến cho rằng, tính hình thức, đối phó lại thiếu cơ chế quản lý nhà nước hữu hiệu đã dẫn tới làm mất đi hiệu quả tích cực của công tác kiểm định chất lượng. Ông nhìn nhận vấn đề này như thế nào?

PGS, TS Hoàng Minh Sơn: Luật Giáo dục đại học năm 2018 quy định đối tượng kiểm định bao gồm cơ sở giáo dục đại học và chương trình đào tạo (các trình độ). Hiện nay số lượng chương trình đào tạo của toàn hệ thống giáo dục đại học lên tới hơn 8.000 (bao gồm cả đại học, thạc sĩ và tiến sĩ), trong đó một số cơ sở giáo dục đại học có tới hàng trăm chương trình đào tạo. Việc bắt buộc kiểm định tất cả chương trình đào tạo theo quy định của luật tạo ra sức ép lớn và chi phí tốn kém đối với các cơ sở giáo dục đại học và gây quá tải cho hệ thống tổ chức kiểm định.

Thực tế, sau 6-7 năm triển khai luật, tính từ năm 2018, số lượng và chương trình kiểm định cũng mới chỉ được hơn một nửa số chương trình của đại học. Như vậy, quy định yêu cầu bắt buộc kiểm định với các chương trình đào tạo là không khả thi. Bên cạnh đó, sự mất cân đối giữa năng lực của các tổ chức kiểm định đối với nhu cầu kiểm định của các cơ sở giáo dục đại học cũng tạo ra những hệ lụy như: Tính hình thức, đối phó và dẫn tới làm mất đi hiệu quả tích cực của công tác kiểm định chất lượng.

PV: Kiểm định là một hình thức cam kết trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục, bảo đảm họ không tự ý mở ngành hoặc đào tạo theo hướng tùy tiện. Như vậy, việc giới hạn lĩnh vực, nhóm ngành để kiểm định, liệu có ảnh hưởng đến bảo đảm chất lượng giáo dục đại học không, thưa ông?

PGS, TS Hoàng Minh Sơn: Luật sửa đổi quy định, 100% cơ sở giáo dục đại học vẫn phải thực hiện kiểm định. Nhưng với chương trình đào tạo, sẽ không bắt buộc tất cả, mà có phân cấp. Thí dụ, kiểm định chất lượng chỉ yêu cầu bắt buộc đối với các lĩnh vực, nhóm ngành đặc thù (sức khỏe, sư phạm, pháp luật) vì chúng tác động trực tiếp đến con người và chương trình đầu tiên thuộc một lĩnh vực đào tạo. Bởi lẽ, chúng tác động trực tiếp đến con người. Với những lĩnh vực khác, sẽ cho lựa chọn phù hợp, có thể là chương trình mới mở trong một nhóm ngành nào đó. Việc sửa đổi luật sẽ tiếp cận theo hướng quản lý nhà nước xử lý rủi ro, còn kiểm định tập trung vào mục tiêu cải tiến chất lượng.

PV: Thứ trưởng có đề cập mục tiêu cải tiến chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học? Điều này được hiểu như thế nào?

PGS, TS Hoàng Minh Sơn: Khi thực hiện Luật Giáo dục đại học 2018, chúng ta đặt nặng khâu kiểm định, trong khi lại chưa chú trọng việc xây dựng chính hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong các trường đại học. Thực hiện tự chủ, nghĩa là để chính các cơ sở giáo dục đại học tăng cường năng lực bảo đảm chất lượng nội bộ, chứ không phải phụ thuộc kiểm định bên ngoài. Đấy mới là điều quan trọng!

Sửa đổi luật lần này, Bộ Giáo dục và Đào tạo mong muốn tạo ra hành lang pháp lý, một môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các cơ sở giáo dục đại học. Các trường cạnh tranh với nhau bằng chất lượng và hiệu quả. Trường nào cung cấp chất lượng tốt thì người học lựa chọn, xã hội đánh giá cao, đầu ra được thị trường lao động đón nhận. Còn khâu kiểm định chỉ là để giúp các cơ sở giáo dục đại học nhìn nhận một cách khách quan những ưu điểm để phát huy, những vướng mắc, điểm yếu cần khắc phục, nhằm mục tiêu cuối cùng là cải tiến chất lượng.

Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng có những công cụ quản lý nhà nước khác, như tăng cường quản lý chất lượng bằng dữ liệu. Hiện, Bộ đã hoàn thiện cơ sở dữ liệu giáo dục đại học để tăng cường hiệu quả giám sát các chỉ số điều kiện và kết quả hoạt động theo chuẩn cơ sở giáo dục đại học; giám sát các kết quả đánh giá và kiểm định do tổ chức kiểm định báo cáo.

PV: Xin cảm ơn thứ trưởng!

Tính đến ngày 31/3/2025, cả nước có 209/265 cơ sở giáo dục đại học (chiếm 78,8%) và 2.452 (30,66%) chương trình đào tạo các trình độ của cơ sở giáo dục đại học được kiểm định và cấp chứng nhận của các tổ chức kiểm định trong nước và nước ngoài, trong đó có 12 cơ sở giáo dục đại học và 670 chương trình đào tạo được đánh giá và công nhận bởi các tổ chức kiểm định quốc tế có uy tín.

Theo thống kê, hiện nay đội ngũ kiểm định viên được Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp thẻ là hơn 600 người, trong đó có nhiều kiểm định viên là các đánh giá viên, kiểm định viên của các tổ chức kiểm định chất lượng nước ngoài và có đóng góp cho sự phát triển của hệ thống bảo đảm chất lượng nước ngoài và có đóng góp cho sự phát triển của hệ thống bảo đảm chất lượng trong nước và khu vực ASEAN.

back to top