Ngày 12/4/1966, máy bay B52 lần đầu tiên tấn công vào miền bắc Việt Nam, vị trí đèo Mụ Giạ (Quảng Bình cũ). Một nguồn tin từ Washington cho biết: “Một khi đã mở đường thì không có lý do gì để không tiếp tục” (*). Và hành trình của bộ đội tên lửa Việt Nam, bước sang một giai đoạn mới.
Giữa bạt ngàn nhiễu loạn
Ngày 21/5/1956, máy bay ném bom chiến lược B52 của Mỹ lần đầu tiên ra mắt, thả bom nhiệt hạch trong khuôn khổ Chiến dịch Red Wing tại đảo Bikini, Thái Bình Dương. Chiếc “pháo đài bay” được mệnh danh bất khả chiến bại với những thông số khủng khiếp đã liên tục mang đầu đạn hạt nhân lượn lờ suốt Chiến dịch Chrome Dome (1961-1968), nhằm đe dọa Liên Xô.
Ngày 12/4/1966 không phải ngày đầu tiên B52 rải bom ở Việt Nam. Đó chỉ là thời điểm, người Mỹ đã sốt ruột và gia tăng không kích. “Kể từ tháng 2/1965, các máy bay tiêm kích ném bom của Mỹ đã liên tục tấn công miền bắc Việt Nam gần như mỗi ngày” (**). Trước đó, ngày 18/6/1965, Mỹ huy động 27 lượt máy bay B52 ném bom rải thảm tại khu vực Bến Cát, tỉnh Thủ Dầu Một, phía tây bắc Sài Gòn (nay thuộc TP Hồ Chí Minh). Mục tiêu chính của Mỹ là phá hủy căn cứ cách mạng, các cơ quan đầu não của ta cùng với dân cư địa phương.
Từ tháng 5/1966, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân (PK-KQ) đã điều Trung đoàn tên lửa 238 vào Vĩnh Linh (Quảng Trị) để nghiên cứu và tìm cách đánh B52. Đây là nhiệm vụ chưa từng có tiền lệ. Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (AHLLVTND) Trần Mạnh Hiến, nguyên sĩ quan điều khiển Tiểu đoàn 82, Trung đoàn 238, nhớ lại: “Trong cuộc đời binh nghiệp 43 năm, kỷ niệm sâu sắc nhất với tôi là hành quân vào chiến trường B - Quảng Trị, trực tiếp nghiên cứu và chiến đấu với B52”.
Đánh hụt
Chúng tôi đã gặp nhiều anh hùng trực tiếp bắn rơi B52, và hầu hết họ đều thừa nhận, chỉ tới khi bắn rơi chiếc máy bay đầu tiên, họ mới thật sự được đối diện với siêu pháo đài bay. AHLLVTND Hoàng Văn Nam, nguyên sĩ quan điều khiển Tiểu đoàn 52, Trung đoàn 267 cho biết, ông chỉ được nhìn thấy B52 vào đêm 18/12/1972. AHLLVTND Nguyễn Đình Kiên, nguyên sĩ quan điều khiển Tiểu đoàn 57, Trung đoàn 261, người đã bắn rơi bốn chiếc B52 trong 12 ngày đêm Hà Nội năm 1972 cũng nói đơn vị mình chưa từng tiếp xúc trực tiếp với B52 trước đó.
Giai đoạn đầu của cuộc chiến, việc phân biệt các loại máy bay địch là một thách thức lớn đối với bộ đội tên lửa Việt Nam. AHLLVTND Phạm Trương Uy vẫn nhớ lần “bắn nhầm B52” ngày 2/4/1972 tại trận địa Mễ Chè (Vĩnh Linh). 15 giờ 30 phút, Tiểu đoàn 64 nhận được lệnh tiêu diệt một tốp B52 đang cách trận địa 70 km về hướng tây nam. Kíp chiến đấu do Tiểu đoàn trưởng Phạm Trương Uy chỉ huy, cùng sĩ quan điều khiển Lê Văn Khánh và các trắc thủ, đã chọn đúng dải nhiễu của B52 theo cách đánh đã được huấn luyện và phóng hai quả tên lửa. Đài radar P12 theo dõi xác định máy bay địch rơi, và sở chỉ huy Trung đoàn 236b cùng Sư đoàn 365 đã điện biểu dương Tiểu đoàn 64 vì bắn rơi chiếc B52 đầu tiên trong chiến dịch Trị - Thiên.
Nhưng thực tế, đó không phải là B52 mà là máy bay gây nhiễu từ xa EB66. Phía Mỹ cũng đã đưa ra các tài liệu tái khẳng định điều này trong một buổi gặp mặt ngày 21/2/2000 giữa kíp tên lửa Việt Nam và đoàn hoạt động hỗn hợp Việt - Mỹ tìm kiếm người mất tích. Với người Mỹ, sự kiện này, cùng với chiếc OV-10 bị bắn rơi vào ngày hôm sau khi tham gia cứu hộ, đã trở thành một dấu tích nặng nề trong chiến tranh tại Việt Nam. Nhưng với phía Việt Nam, đó là một minh chứng cho sự phức tạp của chiến tranh điện tử và những thách thức trong việc nhận diện mục tiêu.
Mỗi chiếc B52 mang từ 9 đến 15 máy gây nhiễu, tạo ra một dải nhiễu rất mịn, dày và ổn định, che lấp toàn bộ tín hiệu máy bay. Việc phân biệt giữa tín hiệu thật và nhiễu giả, hay giữa B52 và các loại máy bay gây nhiễu khác thời điểm đó là vô cùng thách thức. Màn hình hiện sóng thường bị “trắng xóa toàn bộ” hoặc “rối bời như một mớ bòng bong (***)”. Chính ông Phạm Trương Uy, người bắn rơi chiếc EB66 cũng nói lúc đó nếu theo lý thuyết thì “hai dải nhiễu giống nhau quá”.
Ngày 16/4/1972, Không quân Mỹ huy động 60 chiếc F4 bay cao 10 km, giả làm B52 để tấn công Hà Nội và Hải Phòng. Radar của ta đã nhầm tưởng đó là B52. Các đơn vị tên lửa bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng liên tiếp phóng nhiều đạn tên lửa nhưng không rơi chiếc nào. Giai đoạn này được mô tả là “nặng nề nhất” đối với bộ đội PK-KQ (****).
Một đội Nhiễu chống nhiễu
Đại tá, kỹ sư La Văn Sàng công tác tại Trung đoàn tên lửa 274 trước khi được điều động về Bộ Tham mưu vào năm 1966 để tham gia thành lập Ban Nghiên cứu nhiễu (sau này là Đội trinh sát nhiễu) dưới sự lãnh đạo của Đội trưởng Phan Thu (sau này là Trung tướng, AHLLVTND, Phó Giáo sư). Ban đầu, đội tập trung nghiên cứu nhiễu của các loại máy bay tiêm kích F. Vào năm 1968, theo chỉ thị của Bác Hồ và Tư lệnh PK-KQ Lê Văn Tri, trọng tâm nghiên cứu của đội đã chuyển sang cách đánh B52. Để thực hiện nhiệm vụ này, một đoàn gồm 34 thành viên, bao gồm ông La Văn Sàng, do ông Phan Thu dẫn đầu (gồm các trợ lý từ không quân, tên lửa và radar), đã được cử vào Khu 4 (Vĩnh Linh, Quảng Trị), đặc biệt là đỉnh Cà Roòng (cao điểm 671), để nghiên cứu nhiễu B52.
Ông Sàng nói không bao giờ quên những ngày trực trên điểm cao 671, sử dụng máy thu D1K cùng các hệ thống khác để thu tín hiệu B52 khi chúng phát sóng. “Mục đích chính của nghiên cứu ở Khu 4/Đường 559 là phát hiện quy luật hoạt động của nhiễu B52 để có thể thông báo trước cho các đơn vị hoạt động trên Đường 559 và Đường 20 biết khi nào B52 vào đánh phá (thường báo trước khoảng 10 phút), giúp các phương tiện, công binh và thanh niên xung phong kịp thời ứng phó”, ông Sàng cho biết.
Những ngày tháng trên đỉnh Cà Roòng trực chiến, những buổi đến từng trận địa nghiên cứu, chụp hình từng đường bay tên lửa, từng tín hiệu nhiễu, cả khoảnh khắc chiếc máy bay trúng đạn… tất cả ông Sàng đều tổng hợp, lưu giữ tới tận giờ. Sau nhiều lần nghiên cứu, đội của ông Sàng đã rút ra được quy luật hoạt động cơ bản của B52.
Một phát hiện quan trọng nữa là trong một trận đánh của Tiểu đoàn 64, sau khi phóng tên lửa mà không trúng, đơn vị đã phát sóng lại và phát hiện tín hiệu B52 trên nền nhiễu ở cự ly 24-27 km. Điều này là một bước đột phá, vì trước đó nhiều người nghĩ rằng không thể phát hiện tín hiệu mục tiêu B52 do cường độ nhiễu quá mạnh. Phát hiện này đã khẳng định rằng có thể xác định tín hiệu B52 ở một cự ly nhất định (khoảng 30-40km).
Từ kinh nghiệm này, đội Nhiễu đã báo cáo lên Tư lệnh Lê Văn Tri, đề nghị dứt khoát tổ chức đánh B52 ở cự ly đó. Những kinh nghiệm này đã được tổng kết và đóng góp vào tài liệu “Sách đỏ B52” (tài liệu tổng hợp cách đánh B-52 phát hành năm 1972).
Ngay từ năm 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu Quân chủng PK-KQ “theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm” đến B52. Tháng 7/1965, Bác đã khẳng định: “dù có B52 cũng đánh và phải thắng”.
Ngày 24/3/1966, sau khi xem xác chiếc máy bay trinh sát tầm cao bị tên lửa ta bắn rơi, Bác Hồ đã chỉ thị cho Quân chủng PK-KQ phải nghiên cứu và chuẩn bị đối phó với B52, vì sớm muộn gì Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh phá miền bắc.
Tháng 7/1965, Người khẳng định: “Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền. Dù chúng có B57, B52 hay “bê” gì đi chăng nữa ta cũng đánh... mà đã đánh là nhất định thắng”.
Cuối năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo một cách chính xác rằng: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”.
(Nguồn: Tài liệu Quân chủng PK-KQ)
Giữa túi bom
Chiến trường Quảng Bình, Quảng Trị khi đó cực kỳ ác liệt. Ông Hoàng Văn Nam kể, khi đơn vị ông hành quân vào Quảng Bình (Bố Trạch, phía nam sông Gianh) để bảo vệ chiến dịch Quảng Trị, ông “tưởng là không sống nổi” vì bom đạn địch san bằng chung quanh trận địa. Ông Nguyễn Đình Kiên mô tả vùng A2 (từ Thanh Hóa tới Vĩnh Linh, Quảng Trị) vào tháng 5-6/1968 là “cán xoong”, nơi địch truy tìm và đánh phá lực lượng phòng không ta rất dữ dội. Các tiểu đoàn tên lửa phải liên tục cơ động, ngụy trang, thậm chí phải chôn khí tài dưới đất để tránh bị phát hiện.
Trung tướng, AHLLVTND Nguyễn Văn Phiệt, nguyên Tiểu đoàn trưởng 57, Trung đoàn Tên lửa 261 kể lại: “Nó đánh không lúc nào ngóc đầu dậy. Cứ hết pháo kích rồi máy bay ném bom”. Trong một trận đánh vào tháng 5/1968 tại Nghi Trường (Nghệ An), trận địa của Tiểu đoàn 57 bị địch tấn công suốt 24 tiếng, khiến khí tài bị hỏng nặng và 13 người hy sinh.
Ông Phạm Trương Uy cũng kể lại, chỉ cần qua sông Gianh là chiến trường khác hẳn: “Trên trời không lúc nào không có máy bay. Sơ sảy là OV10 chỉ điểm. Trong đó bốn bề đều là địch, muốn kiểm tra sóng cũng khó”. Địa hình rừng núi phức tạp khiến việc phát hiện mục tiêu và ngụy trang trở nên khó khăn. Các trận địa tên lửa chỉ bố trí được ít bệ phóng hơn tiêu chuẩn (vài ba bệ thay vì sáu bệ). Mưa gió và ẩm ướt thường xuyên làm hỏng khí tài. Trước khi bắn rơi chiếc B52 đầu tiên, ngày 15/3/1967, Tiểu đoàn 81, 83 của Trung đoàn 238 cũng đã đối mặt với B52, nhưng do khí tài không bảo đảm mà đành để mục tiêu vụt mất.
Trung đoàn 238 đã phải chịu tổn thất nặng nề, mất gần một trung đoàn quân số và hai trung đoàn khí tài trong quá trình này, nhưng đến tháng 8/1967, họ đã nắm được cách phát hiện tín hiệu thật của B52. Đó là tiền đề để ngày 17/9/1967, tại Vĩnh Linh, Tiểu đoàn 84 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Đình Phiên chỉ huy đã bắn rơi hai chiếc B52 chỉ trong vòng hơn 3 phút. Đây là lần đầu tiên B52 bị tên lửa đất đối không đánh gục ở Việt Nam.
(Còn nữa)
(*) (**) Báo New York Times 12/4/1966.
(***) (****) Giới thiệu về trận Điện Biên Phủ trên không (Tài liệu tổng hợp của Trung tá, Phó trưởng Phòng Tác huấn - Bộ Tham mưu Quân chủng PK-KQ Lưu Trọng Lân, 1999).