Cái nghề thật lắm công phu
Thoạt nhìn, nghề làm mõ Thủy Xuân sẽ có nét tương đồng với nghề mộc truyền thống. Tuy nhiên, hai nghề này chỉ giống ở khâu chạm trổ bề ngoài. Điểm khác biệt rõ nét nhất là mõ Thủy Xuân được người thợ khoét một phôi gỗ nguyên khối trở thành rỗng ruột, không lắp ghép để tạo thành hộp âm.
Cụ thể, phôi gỗ mít được chọn lựa kỹ, không rạn nứt, chỉ lấy phần lõi trong khối gỗ. Phôi gỗ được chuyển sang bước xử lý thô thành dạng hình cầu. Kế đó, người thợ khéo léo thực hiện một đường cưa sâu khoảng một phần ba bán kính khối cầu, đây là vị trí dùng để khoét rỗng ruột cho cả chiếc mõ. Vì không được lắp ghép nhiều mảnh gỗ, đồng thời cần bảo đảm độ dày đều đặn cho toàn bộ chiếc mõ, tay nghề của người thợ sẽ tập trung cao nhất ở khâu này.
Mũi đục, mũi cạo dần đi sâu vào ruột phôi gỗ. Thợ lành nghề chỉ mất khoảng một buổi để hoàn tất công đoạn khoét ruột mõ này. Là thế hệ thứ ba trong gia đình nối nghề, các anh Phạm Ngọc Hải (41 tuổi), Phạm Ngọc Đức (37 tuổi) hiểu rõ tính cách điềm tĩnh, từ tốn rất cần cho nghề làm mõ. Một chiếc mõ chỉ cho âm thanh hay khi quá trình chế tác có độ ổn định của đôi tay, khiêm nhường trong suy nghĩ.
Từ thời ông nội các anh là ông Phạm Ngọc Dư đã vạch ra tiêu chuẩn đó. Làm ra một chiếc mõ, người thợ đặt vào đó niềm tự hào về nghề thủ công, đồng thời tìm đến sự thức tỉnh trong tâm hồn. Tiếng mõ Thủy Xuân vang lên trong các lễ cúng, niệm Phật. Do đó, cái tâm và sự say mê của người thợ sẽ được trải lòng theo từng nhịp gõ cốc cốc. Để đánh giá tay nghề của người thợ làm mõ, anh Đức cho biết cần quan sát hình dạng tròn trịa của chiếc mõ. Kích thước đường kính mõ Thủy Xuân từ khoảng 15 cm, 35 cm, 45 cm… đến những chiếc mõ khổng lồ có đường kính gần 1m.
Tất cả những chi tiết uốn cong, mức độ bo tròn trên bề mặt sản phẩm cần chuẩn xác tuyệt đối. Chiếc mõ càng lớn đòi hỏi tính đối xứng các chi tiết càng cao. “Vùng đất Huế thường gắn liền với hình tượng rồng cho nên khi trang trí cho chiếc mõ, chúng tôi căn chỉnh, thiết kế hai đầu rồng đối xứng nhau trên bề mặt mõ. Phần vảy trên thân rồng được điêu khắc cách điệu tạo nét uyển chuyển nhưng cần phù hợp cho những không gian như trong các ngôi chùa”, anh Đức cho biết.
Nhìn cách anh Đức liên tục đảo hướng mũi đục trên bề mặt gỗ mít, không ai nghĩ hồi mới học nghề, anh Đức đã làm hỏng hàng chục phôi gỗ. Trải qua 15 năm làm mõ, anh Đức cho hay người thợ nghề này cần thuyết phục được đôi tai các sư thầy trong chùa qua sản phẩm được tạo tác. Sở dĩ có việc đó là bởi chỉ các sư thầy mới có khả năng nhập tâm vào từng nhịp gõ mõ để hiểu cặn kẽ chất âm.
Gọi tiếng cho mõ
Trong quá trình chế tác, mõ làng Thủy Xuân rất dễ mất tiếng. Đây là một điều thực tế trong việc canh chỉnh âm thanh cho mõ. Sau khi người thợ hoàn tất công đoạn tạo phôi, khoét rỗng ruột, chiếc mõ được mang đi phơi nắng (vào mùa nắng) hoặc sấy trong lò điện (vào mùa mưa). Sau công đoạn làm khô đó, phôi gỗ bị co giãn, vì thế tiếng mõ rất dễ lệch âm so với ban đầu, thậm chí là mất tiếng.
“Đây chính là điều các thợ làm mõ thường gặp. Để lấy lại âm thanh cho mõ, chúng tôi cân chỉnh bằng việc tiếp tục khoét rỗng phần ruột. Vừa đục lớp gỗ trong ruột vừa dùng dùi gõ thử âm liên tục. Nhờ bước “lấy âm” lần hai này mà sản phẩm mõ Thủy Xuân sau khi bán ra thị trường sẽ bảo đảm phát ra âm thanh trọn đời”, anh Hải nói. Chính từ mức độ quan trọng của việc lấy âm cho mõ, không gian nơi làm việc của đội thợ vắng lặng tuyệt đối. Tiếng cốc cốc vang đều khắp xóm nhỏ giúp dễ dàng xác định vị trí nơi những chiếc mõ được ra đời.
Vài tháng trở lại đây, nhu cầu mua mõ kích thước đường kính 35 cm tăng lên, đây cũng là loại mõ chính được làm ở làng Thủy Xuân. Mỗi tháng, một người thợ làm ra được khoảng hơn 10 chiếc mõ, với giá bán một chiếc mõ từ vài triệu đồng đến 10 triệu đồng (đối với mõ có đường kính gần 1m), công việc này đã giúp cải thiện đời sống kinh tế các hộ gia đình. Các khách hàng tìm đến làng Thủy Xuân để mua mõ đều là khách hàng quen thuộc trên khắp cả nước.
Vì là khách quen cho nên họ thường thiết kế sẵn các hình mẫu để người thợ tạo hình trên bề mặt chiếc mõ. Qua các năm, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm mõ gỗ mít dần tăng lên, ổn định thường xuyên. Đáng chú ý, thương hiệu mõ làng Thủy Xuân đã được xuất ngoại sang Mỹ, đó là những đơn hàng do các Phật tử Việt Nam đang sinh sống tại Mỹ mong muốn nghe được tiếng mõ Thủy Xuân, tiếng mõ từ quê hương.
Được sống trong một không gian yên tĩnh, an lành, chung quanh là những ngôi chùa như Từ Hiếu, Giác Minh, Viên Quang, Thiền Lâm,… các anh Ngọc Hải, Ngọc Đức thấy rõ trách nhiệm của bản thân trong việc giữ nghề làm mõ. Việc giữ được âm thanh riêng có cho mõ chính là sự thành công của nghề này.
Nếu thay gỗ mít bằng các loại gỗ khác, âm thanh khi gõ mõ sẽ thay đổi, không còn độ vang. Bởi vậy, nói việc làm được bầu âm từ gỗ mít tạo nên dấu ấn của làng nghề mõ Thủy Xuân là điều hiển nhiên. “Anh em chúng tôi tự dặn lòng mình rằng cần giữ được nghề cha ông để lại. Mỗi chiếc mõ gỗ mít đi ra từ làng Thủy Xuân sẽ mang theo sự khéo léo cùng tấm lòng của những người thợ như chúng tôi”, anh Hải bày tỏ.