Phát triển các vùng kinh tế động lực nhằm tạo đà cho tăng trưởng kinh tế

Mới đây, nhóm nghiên cứu của Đại học Kinh tế Quốc dân (Hà Nội)  trong một báo cáo tổng hợp chung đã kiến nghị, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ để thúc đẩy phát triển các vùng động lực, nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số trong giai đoạn tiếp theo của nước ta.

Phát triển vùng là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng ta trong quá trình phát triển đất nước. (Ảnh: PV)
Phát triển vùng là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng ta trong quá trình phát triển đất nước. (Ảnh: PV)

Phát triển vùng là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng ta trong quá trình phát triển đất nước nhằm khai thác, phát huy các tiềm năng, lợi thế của các vùng và các địa phương trong cả nước để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

Các định hướng chiến lược của Việt Nam cũng đã xác định vấn đề phát triển một số địa bàn đi trước, tạo động lực lôi kéo các vùng và cả nước cùng phát triển. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 có nêu “thúc đẩy các vùng kinh tế trọng điểm phát huy vai trò đầu tàu tăng trưởng nhanh”.

Định hướng này tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm tại Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020: “Thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực và tác động lan toả đến các vùng khác”.

Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2021-2030 tiếp tục xác định nhiệm vụ xây dựng các trung tâm kinh tế, tài chính với thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù có tính đột phá tại một số khu vực có lợi thế đặc biệt.

Xuất phát từ thực tế trên, nhóm nghiên cứu của Đại học Kinh tế Quốc dân (Hà Nội) mới đây trong một báo cáo tổng hợp chung đã kiến nghị, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ để thúc đẩy phát triển các vùng động lực, nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số trong giai đoạn tiếp theo của nước ta.

Thứ nhất, hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển các vùng kinh tế động lực, sớm thực hiện phân bổ lại vùng động lực, hoàn thiện lại quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội các vùng thời kỳ 2025–2030, tầm nhìn đến năm 2050, bảo đảm các quy hoạch này phản ánh được cục diện mới sau sáp nhập, là kim chỉ nam để định hướng hoàn thiện quy hoạch tỉnh, ngành sau sáp nhập.

Thứ hai, nâng cấp thể chế vùng, quản trị vùng và hoàn thiện cơ chế điều phối liên kết vùng, hoàn thiện cơ chế điều phối vùng nhằm khắc phục điểm tình trạng cục bộ, “mạnh ai nấy làm”, dẫn tới tình trạng xung đột lợi ích và thiếu hợp tác giữa các địa phương nội vùng. Xây dựng thể chế vượt trội, có sức cạnh tranh quốc tế để thúc đẩy các mô hình mới tại các vùng động lực như phát triển khu thương mại tự do, trung tâm tài chính quốc tế.

Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực tầm vùng, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu của xã hội, gắn kết đào tạo với nhu cầu doanh nghiệp; nâng cao năng suất, chất lượng hoạt động khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục-đào tạo; ưu tiên phát triển, đồng thời có chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài trong và ngoài nước để phát triển nhanh một số ngành kinh tế quan trọng, mới nổi như vi mạch bán dẫn, AI...

phanvung2.jpg
Xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý giữa các vùng động lực để phát huy tính lan tỏa và động lực thúc đẩy tăng trưởng đối với toàn nền kinh tế. (Ảnh: HNV)

Thứ tư, tăng cường hiệu quả và tác động lan tỏa của đầu tư cho kết cấu hạ tầng vùng. Điều chỉnh cơ cấu chi đầu tư công theo hướng tăng tỷ trọng cho các dự án liên tỉnh, liên vùng, có tính “đột phá” và hiệu ứng dây chuyền cao; chú trọng hạ tầng giao thông, hạ tầng năng lượng và nguồn lực số ở tầm vùng, nhất là hạ tầng phục vụ thích ứng khí hậu và quản lý tài nguyên ở cấp vùng.

Thứ năm, cải thiện môi trường kinh doanh và thu hút hiệu quả các nguồn lực theo hướng khai thác lợi thế so sánh vùng. Theo đó, các địa phương trong vùng cần phối hợp xây dựng một môi trường đầu tư-kinh doanh cấp vùng một cách hấp dẫn, minh bạch để thu hút và phân bổ các nguồn lực xã hội một cách hiệu quả. Hình thành các cụm liên kết ngành ở tầm vùng, kèm theo chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong vùng tham gia mạng lưới cung ứng cho các doanh nghiệp lớn. Tiếp tục thu hút vốn đầu tư FDI vào các ngành kinh tế trọng điểm ở các vùng động lực, đặc biệt là các ngành có hàm lượng công nghệ cao. Xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý giữa các vùng động lực để phát huy tính lan tỏa và động lực thúc đẩy tăng trưởng đối với toàn nền kinh tế. Ưu tiên cho việc hưởng ngân sách nhà nước khi thực hiện liên kết vùng vì lợi quốc gia, lợi ích vùng và lợi ích địa phương.

Thứ sáu, tích hợp tư duy vùng vào hoạch định và thực thi các chương trình, chính sách phát triển kinh tế-xã hội. Các chuyên gia khuyến nghị, để bảo đảm nhân tố vùng thật sự phát huy hiệu quả, tư duy “vùng” cần thấm sâu và đảm bảo tính bắt buộc thực thi cao trong hoạch định và thực thi mọi chương trình, dự án phát triển đất nước. Đặc biệt, xây dựng được cơ sở dữ liệu thông tin có chất lượng phục vụ cho việc ra quyết định của nhiều bên liên quan hướng đến mục tiêu tăng cường hợp tác, liên kết vùng.

Có thể bạn quan tâm