Phát huy vai trò dẫn dắt, tiên phong của doanh nghiệp nhà nước

Trong kỷ nguyên mới, cần có các giải pháp tổng thể, toàn diện, đột phá để doanh nghiệp nhà nước vững bước trên đường ray phát triển, tiếp tục phát huy vai trò dẫn dắt, tiên phong, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững

Phân phối khí LNG tại tổng kho Thị Vải (Bà Rịa-Vũng Tàu).
Phân phối khí LNG tại tổng kho Thị Vải (Bà Rịa-Vũng Tàu).

Ngày 5/6 vừa qua, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 4941/VPCP-ĐMDN, truyền đạt ý kiến Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp hoàn thiện đề án, nghiên cứu, đề xuất ban hành nghị quyết mới của Bộ Chính trị về phát triển doanh nghiệp nhà nước để thật sự thúc đẩy, phát huy các nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước trở thành lực lượng vật chất quan trọng, thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, góp phần phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Khơi thông điểm nghẽn

Sau gần tám năm thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, khu vực này đã có những bước phát triển mạnh mẽ, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Theo Bộ Tài chính, tính đến cuối năm 2024, cả nước có 473 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, giảm 110 doanh nghiệp so cuối năm 2016. Tổng tài sản của các doanh nghiệp nhà nước đạt hơn 4 triệu tỷ đồng, tổng vốn đầu tư của Nhà nước tại doanh nghiệp đạt hơn 1,75 triệu tỷ đồng, tạo việc làm cho gần 1 triệu lao động.

Tuy giảm về số lượng, nhưng doanh nghiệp nhà nước đã khẳng định vị trí quan trọng, đóng góp vào phát triển kinh tế-xã hội đất nước.

Tuy giảm về số lượng, nhưng doanh nghiệp nhà nước đã khẳng định vị trí quan trọng, đóng góp vào phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Trong giai đoạn 2021-2023, các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước duy trì nắm giữ khoảng 7% tổng tài sản và 10% vốn chủ sở hữu của toàn bộ doanh nghiệp trên thị trường; chiếm khoảng gần 26% tổng vốn sản xuất, kinh doanh và hơn 23% giá trị tài sản cố định cũng như đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp; đóng góp khoảng 28% thu ngân sách nhà nước...

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, năng lực cạnh tranh, khoa học-công nghệ còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, nhất là trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa thực hiện đầy đủ quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm để hoạt động theo cơ chế thị trường; hiệu quả đầu tư chưa đạt kỳ vọng; một số doanh nghiệp chưa tối ưu hóa hiệu quả nguồn vốn, quyết định đầu tư khi năng lực tài chính chưa đáp ứng yêu cầu, chủ yếu dựa vào vốn vay. Tiến độ triển khai cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp còn chậm, không đạt yêu cầu kế hoạch đề ra, ảnh hưởng đến tiến độ và nguồn thu từ cổ phần hóa, thoái vốn của cả giai đoạn,...

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (thay thế Luật số 69/2014/QH13) tháo gỡ những điểm nghẽn, nút thắt hạn chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh; tăng cường năng lực tài chính cho doanh nghiệp nhà nước;… Nhiều luật liên quan hoạt động của doanh nghiệp như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, các luật về thuế,... gần đây cũng được sửa đổi. Theo Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng, Nhà nước chỉ quản lý phần vốn góp tại doanh nghiệp và mở ra cơ chế, chính sách để tăng quyền tự chủ cho doanh nghiệp. Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp cần đổi mới tư duy, quản trị để tận dụng hiệu quả nguồn lực, đạt kết quả kinh doanh tốt nhất.

Vị trí quan trọng không thể thay thế

Sau 40 năm “Đổi mới”, cơ đồ, tiềm lực, vị thế của Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều điểm nghẽn cần tháo gỡ như nguy cơ tụt hậu về khoa học-công nghệ và kinh tế; khả năng rơi vào bẫy thu nhập trung bình; năng lượng sản xuất, tính tự chủ của nền kinh tế chưa cao;… Việt Nam đã và đang đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, thâm dụng lao động,… sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, dựa vào khoa học-công nghệ hiện đại, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tăng năng suất lao động,… Bên cạnh đó, phát triển bền vững, tăng trưởng xanh cũng trở thành đường lối phát triển chiến lược của đất nước.

Trong quá trình này, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Khu vực doanh nghiệp nhà nước đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới trong điều chỉnh, lựa chọn, triển khai áp dụng mô hình kinh doanh bền vững, đồng thời là lực lượng vật chất quan trọng của Nhà nước để thực hiện chính sách phát triển bền vững.

Mặt khác, với hàng loạt hiệp định thương mại tự do đã ký, Việt Nam đang tích cực, chủ động hội nhập sâu và rộng với kinh tế thế giới. Điều này mở ra những cơ hội to lớn về thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp nhà nước. Nghiên cứu nội dung các hiệp định và cam kết thương mại gần đây cho thấy, các bên đối tác không còn đặt ra yêu cầu cụ thể về quy mô hay phạm vi của doanh nghiệp nhà nước, mà thường chỉ đề cập đến yêu cầu áp đặt cơ chế thị trường đối với doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm môi trường, thể chế kinh doanh cạnh tranh bình đẳng.

Đặc biệt, để hiện thực hóa chủ trương phát triển kinh tế-xã hội, phấn đấu tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2026-2030 ở mức hai con số, đặt ra yêu cầu cần cải cách mạnh mẽ thể chế nhằm khơi thông mọi nguồn lực trong xã hội, sử dụng nguồn vốn nhà nước trong khuyến khích, thu hút, dẫn dắt đầu tư của khu vực tư nhân cho phát triển. Để thật sự thúc đẩy, phát huy các nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước trở thành lực lượng vật chất quan trọng thực hiện vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, cần xây dựng một nghị quyết mới về phát triển doanh nghiệp nhà nước.

Nghị quyết này sẽ kế thừa những nhiệm vụ, giải pháp, định hướng của Nghị quyết số 12-NQ/TW còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay, đồng thời rà soát và bổ sung các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của khối doanh nghiệp nhà nước cùng các thành phần kinh tế khác. Nghị quyết này cũng sẽ bổ sung, cụ thể hóa các nội dung của Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới cũng như Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Có thể bạn quan tâm

back to top