Cơ hội để mọi trẻ em được phát triển toàn diện
Phóng viên: Thưa Vụ trưởng Nguyễn Thanh Đề, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 3 đến 5 tuổi. Nghị quyết này có ý nghĩa thế nào đối với sự phát triển lâu dài của ngành giáo dục và xã hội?
Vụ trưởng Nguyễn Thanh Đề: Việc Quốc hội thông qua Nghị quyết về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi là bước tiến mạnh mẽ trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực bền vững. Giai đoạn mầm non là thời kỳ vàng cho sự phát triển thể chất, nhận thức, cảm xúc và kỹ năng xã hội của trẻ. Đầu tư cho giáo dục mầm non chính là đầu tư cho tương lai đất nước. Phổ cập giáo dục cho độ tuổi từ 3 đến 5 tuổi tạo nền tảng bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, giúp mọi trẻ em đều có cơ hội phát triển tối ưu tiềm năng cá nhân.
Nghị quyết góp phần trực tiếp vào nâng cao chất lượng dân số. Trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục khoa học ngay từ sớm sẽ có nền tảng tốt về sức khỏe, trí tuệ và nhân cách, chuẩn bị sẵn sàng vào học lớp 1 và học tốt hơn ở các cấp tiếp theo.

Phổ cập giáo dục mầm non thể hiện rõ chính sách an sinh và công bằng xã hội. Trẻ em ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, khu công nghiệp… sẽ được Nhà nước ưu tiên bảo đảm quyền học tập, từ đó thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, nhóm đối tượng.
Việc thông qua Nghị quyết là một chủ trương lớn, có tầm nhìn dài hạn, góp phần xây dựng nền giáo dục công bằng, nhân văn và phát triển toàn diện, đúng với tinh thần “giáo dục là quốc sách hàng đầu” mà Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định thực hiện.

Phóng viên: Việc phổ cập giáo dục mầm non sẽ đặt một số vấn đề cần đáp ứng như đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất trường học ,... Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có kế hoạch triển khai cụ thể ra sao và ông có thể đưa ra đánh giá về tính khả thi của các mục tiêu khi thực hiện thực tế?
Vụ trưởng Nguyễn Thanh Đề: Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định một số nhóm giải pháp trọng tâm trong giai đoạn đến năm 2030 như sau:
Về đội ngũ, việc thực hiện triển khai các chính sách hỗ trợ tiền học phí và chi phí sinh hoạt cho sinh viên sư phạm theo Nghị định số 60/2025/NĐ-CP, xây dựng chính sách đặc thù của địa phương và Đề án phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non giai đoạn 2026-2035 nhằm bảo đảm mục tiêu đủ nguồn lực chất lượng cao phục vụ phổ cập giáo dục mầm non.
Thứ hai, về cơ sở vật chất, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tham mưu Chính phủ Chương trình mục tiêu quốc gia về hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo bảo đảm các chính sách đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu phổ cập trong giai đoạn tới, trong đó sẽ tập trung vào vùng đặc biệt khó khăn và khu vực đô thị hóa nhanh.


Song song với đó, Bộ sẽ tham mưu cho Chính phủ chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục mầm non theo hướng rõ ràng, minh bạch và khuyến khích sự tham gia của các tổ chức, doanh nghiệp trong xây dựng trường lớp, nhất là ở nơi Nhà nước chưa thể đầu tư kịp.
Thứ ba, về chính sách hỗ trợ, Bộ sẽ phối hợp đề xuất sửa đổi, hoàn thiện các chính sách ưu tiên cho trẻ em mẫu giáo thuộc hộ nghèo, cận nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em khuyết tật, trẻ em con công nhân ở khu công nghiệp... nhằm bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục mầm non. Các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên… cũng sẽ được nghiên cứu điều chỉnh phù hợp với yêu cầu thực tế.
Với những giải pháp đồng bộ về thể chế, nguồn lực và chính sách, cùng sự vào cuộc quyết liệt của các cấp, các ngành và toàn xã hội, việc thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi đến năm 2030 là hoàn toàn khả thi và có tính bền vững.
Phóng viên: Giáo viên, đặc biệt là giáo viên mầm non, có vai trò then chốt trong công tác phổ cập giáo dục mầm non. Đội ngũ này đã nhận được sự quan tâm, hỗ trợ như thế nào? Bộ có những chính sách gì nhằm thu hút, giữ chân giáo viên, nhất là ở những khu vực khó khăn, thưa ông?
Vụ trưởng Nguyễn Thanh Đề: Chính sách cho giáo viên đã được thực hiện trong Nghị định số 77/2021/NĐ-CP về phụ cấp thâm niên; phụ cấp thu hút đối với vùng sâu, vùng xa theo Nghị định 76/2019/NĐ-CP; hỗ trợ giáo viên mầm non tại các vùng khó khăn dạy lớp ghép và tăng cường tiếng Việt; hỗ trợ giáo viên dạy con công nhân ở khu công nghiệp tại Nghị định số 105/2020/NĐ-CP.

Tại Luật Nhà giáo đã được Quốc hội thông qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chế độ phụ cấp ưu đãi cho viên chức, người lao động trong các trường công lập, trong đó phụ cấp ưu đãi nghề cho giáo viên mầm non dự kiến tăng từ 35% lên 45-80%; giáo viên mầm non ở các vùng thuận lợi được tăng phụ cấp lên 45%, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn là 80%; các vị trí phục vụ, hỗ trợ dự kiến được hưởng mức 15%; 20% cho chức danh chuyên môn dùng chung, 25% cho các chức danh chuyên ngành; thang bảng lương của nhà giáo nói chung, trong đó có giáo viên mầm non xếp bậc cao nhất trong khối hành chính sự nghiệp; đề xuất nhà giáo trong các cơ sở giáo dục mầm non nếu có nguyện vọng có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 5 tuổi so với quy định và không bị trừ tỷ lệ lương hưu trước tuổi trong Luật Nhà giáo.
Gỡ “nút thắt” trường lớp cho con em công nhân, vùng khó khăn, khu vực đô thị hoá nhanh
Phóng viên: Ông có thể chia sẻ lộ trình cụ thể để thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ từ 3 đến 5 tuổi khi triển khai tại các địa phương thời gian tới?
Vụ trưởng Nguyễn Thanh Đề: Nghị quyết của Quốc hội đặt ra mục tiêu và nguyên tắc: “Đến năm 2030, 100% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi và “thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi theo lộ trình, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, bảo đảm các điều kiện phổ cập theo quy định”.
Sau khi Nghị quyết được Quốc hội thông qua Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Đề án trình Chính phủ trong đó sẽ xác định lộ trình cụ thể việc hoàn thành cụ thể của từng địa phương để bảo đảm vừa phù hợp tình hình kinh tế-xã hội của địa phương và bảo đảm hoàn thành vào năm 2030.

Về tiêu chí đánh giá cơ bản sẽ dựa trên tiêu chuẩn huy động trẻ, các điều kiện bảo đảm về đội ngũ, cơ sở vật chất trường lớp thực hiện phổ cập. Tương tự như với độ tuổi 5 tuổi đã từng triển khai giai đoạn từ 2011 đến nay.
Phóng viên: Hiện nay, không ít con em công nhân vẫn phải gửi về quê hoặc học tại các nhóm trẻ tự phát do thiếu cơ sở mầm non phù hợp. Trong quá trình triển khai Nghị quyết, Bộ Giáo dục và Đào tạo có giải pháp cụ thể nào để hỗ trợ nhóm đối tượng này, đặc biệt trong việc bảo đảm nơi học an toàn và chi phí phù hợp với điều kiện của công nhân?
Vụ trưởng Nguyễn Thanh Đề: Đây là một vấn đề rất đáng quan tâm trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội hiện nay, nhất là tại các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Nghị quyết lần này của Quốc hội đã đặt ưu tiên phát triển giáo dục mầm non tại các khu vực có đông công nhân, lao động nhập cư. Cụ thể, tại khoản 5 Điều 3 của Nghị quyết. Theo đó, Chính phủ sẽ có trách nhiệm chỉ đạo quy hoạch mạng lưới trường lớp tại các địa bàn này, khuyến khích xã hội hóa, nhằm tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục mầm non bảo đảm chất lượng.
Nghị quyết cũng tạo cơ sở để xây dựng các chính sách hỗ trợ riêng cho nhóm trẻ em là con công nhân. Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tham mưu bổ sung chính sách để con em công nhân được bảo đảm quyền học tập, sự phát triển toàn diện và tạo điều kiện để người lao động yên tâm làm việc, gắn bó lâu dài với nơi cư trú.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng Đề án nâng cao chất lượng giáo dục mầm non ở địa bàn đô thị, khu công nghiệp giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2045 trình Thủ tướng Chính phủ ban hành, bảo đảm trẻ mầm non là con công nhân, người lao động ở địa bàn khu công nghiệp được tiếp cận dịch vụ giáo dục mầm non chất lượng, công bằng và bình đẳng.
Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng tạo cơ sở để xây dựng các chính sách hỗ trợ riêng cho nhóm trẻ em là con công nhân, thí dụ, hiện nay đang hỗ trợ cho trẻ em con công nhân, người lao động làm việc tại khu công nghiệp theo Nghị định 105/2020/NĐ-CP. Đặc biệt ngày 26/6/2025 Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về miễn, hỗ trợ học phí cho trẻ em mầm non, học sinh phổ thông,...
Thời gian tới Bộ sẽ tiếp tục nghiên cứu tham mưu bổ sung chính sách cho đối tượng nêu trên; để con em công nhân được bảo đảm quyền học tập, sự phát triển toàn diện và tạo điều kiện để người lao động yên tâm làm việc, gắn bó lâu dài với nơi cư trú.
Từ tầm nhìn chính sách đến hành động thực tiễn
Phóng viên: Phổ cập giáo dục mầm non không chỉ là câu chuyện về tỷ lệ trẻ trong độ tuổi đến lớp, mà còn cần quan tâm chất lượng và môi trường giáo dục. Theo ông, cần có những định hướng trọng tâm nào khi triển khai để bảo đảm phổ cập thực chất, bền vững và toàn diện cho trẻ em?
Vụ trưởng Nguyễn Thanh Đề: Phổ cập không chỉ là tăng tỷ lệ huy động trẻ đến lớp, mà quan trọng hơn là bảo đảm trẻ được học trong môi trường an toàn, chất lượng. Bộ sẽ tập trung vào ba định hướng chính:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu đổi mới chương trình giáo dục mầm non đáp ứng yêu cầu giai đoạn mới.
Thứ hai, nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên, thông qua đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên và cải thiện chính sách hỗ trợ.
Thứ ba, tăng cường kiểm tra, giám sát, trong đó ứng dụng công nghệ thông tin giám sát chặt chẽ chất lượng phổ cập giáo dục mầm non.
Đồng thời, Bộ sẽ phối hợp với địa phương và các ngành liên quan để tạo môi trường phát triển toàn diện cho trẻ em trong suốt quá trình thực hiện phổ cập.

Phóng viên: Thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo, với vai trò của mình, sẽ hành động ra sao để chủ trương lớn này thực sự phát huy trong thực tế.
Vụ trưởng Nguyễn Thanh Đề: Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ chủ động, quyết liệt và đồng bộ trong tổ chức thực hiện Nghị quyết. Cụ thể:
Khẩn trương phối hợp các Bộ, ngành tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định, Đề án triển khai kèm theo lộ trình, chỉ tiêu và nguồn lực rõ ràng;
Xây dựng Kế hoạch hướng dẫn chi tiết, sát thực tiễn, để địa phương dễ dàng triển khai và giám sát;
Tăng cường kiểm tra, theo dõi tiến độ, tháo gỡ khó khăn kịp thời, đặc biệt tại các vùng khó khăn, khu đông dân cư, khu công nghiệp;
Bảo đảm nguyên tắc lấy trẻ em làm trung tâm, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo, không để bất kỳ trẻ nào bị bỏ lại phía sau.
Chúng tôi xác định rõ: Nghị quyết chỉ có ý nghĩa khi chuyển hóa thành lớp học thực tế, đội ngũ giáo viên thực chất và cơ hội công bằng cho mọi trẻ em. Đây là cam kết chính trị và trách nhiệm hành động của toàn ngành.
Xin trân trọng cảm ơn Vụ trưởng!