Bảo đảm lao động di cư ASEAN được làm việc trong môi trường an toàn và công bằng

Di cư lao động trong nội khối ASEAN có xu hướng ngày càng tăng trong những năm gần đây, với khoảng 10 triệu người. Nhóm lao động này cũng đối mặt với nhiều thách thức, nên cần có những chính sách và biện pháp bảo vệ quyền lợi, bảo đảm họ được làm việc trong môi trường an toàn và công bằng.

Lao động di cư trong ASEAN đối mặt với nhiều thách thức

Chiều 29/7, tại Hà Nội, Bộ Nội vụ tổ chức hội thảo về lao động và việc làm trong bối cảnh hội nhập để cập nhật thông tin về những nỗ lực của ASEAN trong hợp tác lao động và sự tham gia tích cực của Việt Nam trong tiến trình hội nhập và hợp tác trong lĩnh vực này.

Đây là hoạt động hưởng ứng kỷ niệm 30 năm Việt Nam gia nhập ASEAN (28/7/1995-28/7/2025),

Sự kiện được kết nối trực tuyến với Hội nghị ASEAN về "Kinh tế chăm sóc và người lao động chăm sóc ở ASEAN" do Ban Thư ký ASEAN điều phối. Qua đó, nhằm cung cấp bức tranh tổng quan về thực trạng nền kinh tế chăm sóc, góp phần hiện thực hóa Tuyên bố ASEAN về tăng cường nền kinh tế chăm sóc và khả năng tự cường đã được các Nhà Lãnh đạo ASEAN thông qua vào năm 2024.

thu-truong-noi-vu-vu-chien-thang-1.jpg
Thứ trưởng Nội vụ Vũ Chiến Thắng phát biểu tại hội thảo.

Thông tin tại hội thảo, Thứ trưởng Nội vụ Vũ Chiến Thắng cho biết, Việt Nam là nước có lực lượng lao động dồi dào và được đánh giá là cần cù, chăm chỉ. Số liệu thống kê năm 2024 cho thấy, Việt Nam có lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đạt 53 triệu người, trong đó lao động nữ gần 24,7 triệu người, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động chỉ ở mức 2,24%.

Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, Việt Nam đang đối mặt với những cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động do trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, hạn chế về ngoại ngữ và các tiêu chuẩn lao động quốc tế khác.

Tuy vậy, trình độ của lao động của Việt Nam vẫn còn hạn chế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng của nước ta chỉ ước tính chỉ đạt 28,3%, còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Thí dụ như, Singapore có tỷ lệ lao động có trình độ cao lên tới 50-60%, Malaysia khoảng 40-50%, Thái Lan khoảng 30-45%.

Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, Việt Nam đang đối mặt với những cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động do trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, hạn chế về ngoại ngữ và các tiêu chuẩn lao động quốc tế khác.

Là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm của ASEAN, Việt Nam nỗ lực thực hiện các chủ trương và chính sách trong nước nhằm hội nhập tốt hơn vào khu vực và thế giới, bao gồm hoàn thiện thể chế và chính sách phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng kỹ năng, tăng cường hợp tác khu vực và quốc tế, trong đó cả việc nỗ lực thúc đẩy thực hiện Thỏa thuận về thừa nhận lẫn nhau, áp dụng Khung trình độ quốc gia theo 8 bậc của ASEAN.

Cùng với quá trình đó, Việt Nam đã tích cực thực hiện các cam kết khu vực trong lĩnh vực lao động, đi đầu với nhiều sáng kiến được quốc tế và khu vực đánh giá cao.

Cụ thể như: (i) xây dựng và triển khai Tuyên bố ASEAN về phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh mới, (ii) Hướng dẫn ASEAN về Lồng ghép giới trong chính sách lao động và việc làm, (iii) thúc đẩy nghiên cứu khu vực về Hỗ trợ lao động di cư quay trở về tái hòa nhập thị trường lao động... Những nỗ lực này đang và sẽ góp phần tạo sự chuyển biến căn bản, bước đột phá để thúc đẩy nguồn nhân lực chất lượng cao có kỹ năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế góp phần quan trọng phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.

Thứ trưởng Vũ Chiến Thắng nêu rõ, lao động di cư nội khối là một đặc điểm quan trọng của thị trường lao động ASEAN. Theo các báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Ban Thư ký ASEAN, di cư lao động trong nội khối ASEAN có xu hướng ngày càng tăng trong những năm gần đây. Hiện có khoảng 10 triệu người lao động di cư đang sinh sống và làm việc tại các nước trong khu vực ASEAN.

Trong bối cảnh già hóa dân số, nhu cầu về nguồn nhân lực cho các dịch vụ chăm sóc ngày càng tăng cao, đặt ra những thách thức lớn đối với các quốc gia thành viên ASEAN trong việc bảo đảm lực lượng lao động làm công việc chăm sóc có chất lượng nhằm duy trì hiệu quả các dịch vụ chăm sóc, vốn là gánh nặng đối với những người phụ nữ trong gia đình. Thực tế này đặt ra nhu cầu cân bằng các yếu tố trong nền kinh tế chăm sóc để phân bổ hiệu quả nguồn lực hiện có, cũng như vạch ra kế hoạch bổ sung, tận dụng và phát triển lực lượng người lao động làm công việc chăm sóc, trong đó lao động di cư đóng vai trò quan trọng trong dịch vụ này.

Lao động di cư không chỉ đóng góp quan trọng cho nền kinh tế chăm sóc của các quốc gia ASEAN mà còn thường đảm nhận những công việc chăm sóc mà người lao động bản địa không đủ, hoặc không muốn làm. Sự hiện diện của lao động di cư giúp giảm bớt áp lực cho hệ thống chăm sóc trong nước, đồng thời mang lại chuyển giao những kinh nghiệm và kỹ năng mới.

Tuy nhiên, lao động di cư cũng đối mặt với nhiều thách thức, từ điều kiện làm việc khắc nghiệt đến thiếu các quyền lợi cơ bản. Do đó, cần có những chính sách và biện pháp bảo vệ quyền lợi của lao động di cư, bảo đảm họ được làm việc trong môi trường an toàn và công bằng.

Di cư lao động trong nội khối ASEAN có xu hướng ngày càng tăng trong những năm gần đây. Hiện có khoảng 10 triệu người lao động di cư đang sinh sống và làm việc tại các nước trong khu vực ASEAN.

Bảo đảm người dân ASEAN có việc làm năng suất

Chia sẻ về tình hình hợp tác lao động trong ASEAN giai đoạn 2021-2025 và ưu tiên cho giai đoạn 2026-2030, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Nội vụ) Hà Thị Minh Đức nhấn mạnh, vai trò của Hội nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN (ALMM) là một nền tảng quan trọng để các Bộ trưởng Lao động trong khối phối hợp các chính sách và sáng kiến nhằm cải thiện tiêu chuẩn lao động, việc làm và bảo vệ người lao động trong nền kinh tế chăm sóc.

thu-truong-noi-vu-vu-chien-thang-3.jpg
Quang cảnh hội thảo.

Chương trình công tác Bộ trưởng Lao động ASEAN (ALM) giai đoạn 2016-2020 nhằm thực hiện mục tiêu: "Chất lượng cuộc sống tốt hơn cho người dân ASEAN thông qua lực lượng lao động với khả năng cạnh tranh được nâng cao và tham gia vào việc làm an toàn và bền vững từ việc làm hiệu quả, nơi làm việc hài hòa và tiến bộ, và an sinh xã hội đầy đủ".

Mục tiêu này tiếp tục định hướng Chương trình làm việc ALM cho giai đoạn 2021-2025, dự kiến sẽ đạt được bốn lĩnh vực kết quả chính là: Lực lượng lao động có tay nghề và thích ứng; việc làm có hiệu suất; nơi làm việc hài hòa, an toàn và tiến bộ; và mở rộng an sinh xã hội.

Trong giai đoạn 2020-2025, các quốc gia thành viên ASEAN cam kết chuẩn bị cho lực lượng lao động ASEAN cho tương lai của việc làm. Có nhiều văn kiện cấp cao gần đây như: Đồng thuận ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư (2017); Tuyên bố ASEAN về Thúc đẩy việc làm xanh vì công bằng và tăng trưởng bao trùm của Cộng đồng ASEAN, (Malaysia, 2018); Tuyên bố của Bộ trưởng Lao động ASEAN về tương lai của việc làm: Nắm bắt công nghệ để tăng trưởng bao trùm và bền vững (Singapore, 2019); Tuyên bố ASEAN về phát triển nguồn nhân lực cho thế giới việc làm đang đổi thay và Lộ trình thực hiện (Việt Nam, 2020); Tuyên bố ASEAN về Thúc đẩy tính cạnh tranh, tự cường và linh hoạt của người lao động ASEAN trong tương lai việc làm (Brunei 2021) và Tài liệu hướng dẫn; Tuyên bố ASEAN về Liên thông chế độ Bảo hiểm xã hội cho người lao động di cư trong ASEAN và các hướng dẫn (Campuchia, 2022); Tuyên bố ASEAN về bảo vệ lao động di cư và thành viên gia đình trong tình huống khủng hoảng và hướng dẫn (Indonesia, 2023); Tuyên bố ASEAN về bố trí việc làm và bảo vệ lao động di cư làm việc trên tàu cá (Indonesia, 2023) và Hướng dẫn; Tuyên bố ASEAN về phòng ngừa lao động trẻ em bao gồm xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (Thái Lan, Lào, Brunei 2024) và Lộ trình thực hiện (đang xây dựng); Tuyên bố ASEAN về Dịch chuyển, công nhận và phát triển kỹ năng nghề cho lao động di cư ASEAN và Bảng kiểm (Lào, 2024).

Riêng với Việt Nam, nước ta có bốn ưu tiên hợp tác khu vực về lao động và việc làm tập trung vào các nội dung cụ thể. Đó là: Nâng cao tính cạnh tranh và năng suất của lực lượng lao động, thúc đẩy tạo việc làm, thúc đẩy quan hệ lao động và tăng cường an sinh xã hội.

Bên cạnh đó, có ba hoạt động ưu tiên của Việt Nam là: Lồng ghép bình đẳng giới vào lĩnh vực lao động; thúc đẩy hợp tác liên ngành nhằm tăng cường an sinh xã hội; nghiên cứu đánh giá về tính tương thích của Luật lao động trong khu vực.

Theo Tiến sĩ Hà Thị Minh Đức, hiện nay, các quốc gia thành viên ASEAN đang tích cực xây dựng Chương trình công tác của Bộ trưởng Lao động ASEAN cho giai đoạn 2026-2030, với sự điều phối của Singapore - Chủ tịch ALMM.

Mục tiêu tổng quát là nhằm bảo đảm người dân ASEAN có việc làm có năng suất và lực lượng lao động có khả năng cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu công việc, từ đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi người.

Có thể bạn quan tâm

back to top