Doanh nghiệp loay hoay với thủ tục hành chính

Việc doanh nghiệp bị "đè" bởi cả núi thủ tục hành chính không còn là chuyện mới, nhưng "nút thắt cổ chai" này vẫn chưa được tháo gỡ một cách căn cơ. Nhiều chuyên gia nhận định, vấn đề không chỉ nằm ở số lượng thủ tục quá nhiều, mà còn xuất phát từ sự thiếu vắng một cơ chế hậu kiểm đủ hiệu lực và hiệu quả.

Doanh nghiệp làm thủ tục quyết toán tại Cục Thuế khu vực 1. Ảnh: BẮC SƠN
Doanh nghiệp làm thủ tục quyết toán tại Cục Thuế khu vực 1. Ảnh: BẮC SƠN

Theo kết quả khảo sát mới nhất của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), có tới 74% số doanh nghiệp đã từng phải hoãn hoặc hủy dự án đầu tư chỉ vì vướng mắc thủ tục hành chính liên quan đến đất đai. Một con số lạnh lùng nhưng đầy sức nặng - đủ khiến bất kỳ nhà hoạch định chính sách nào cũng phải giật mình. Đáng chú ý, 67% số doanh nghiệp phản ánh thời gian xử lý hồ sơ kéo dài hơn quy định, trong đó khâu xác định giá đất đang trở thành điểm nghẽn nhức nhối, khiến hàng loạt dự án bị “đắp chiếu”, chôn vốn suốt nhiều năm trời.

“Người dẫn đường” nhưng lại trở thành rào cản

Trong thời gian qua, Chính phủ đã nhiều lần tuyên bố quyết tâm cắt giảm 30% điều kiện kinh doanh, tinh gọn ít nhất 30% thủ tục hành chính, với mục tiêu đưa Việt Nam vào nhóm ba quốc gia có môi trường kinh doanh thuận lợi nhất ASEAN. Việc loại bỏ hoặc hợp nhất các thủ tục không cần thiết không chỉ giúp doanh nghiệp giảm áp lực mà còn tiết kiệm nguồn lực cho cơ quan quản lý nhà nước.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, để hiện thực hóa mục tiêu này cần đi qua những quyết định không dễ dàng: Cắt, giữ thủ tục nào? Gộp bước nào để không chồng chéo nhưng vẫn bảo đảm kiểm soát?

Ông Phạm Thanh Tuấn, chuyên gia pháp lý bất động sản cho biết, trên thực tế để triển khai một dự án nhà ở sử dụng vốn tư nhân tại cấp tỉnh, doanh nghiệp phải trải qua ít nhất sáu giai đoạn, với hàng chục thủ tục, mỗi bước lại liên quan đến các sở, ngành khác nhau. Chỉ riêng khâu quy hoạch ban đầu cũng đã có thể mất từ 12 đến 18 tháng. Tiếp sau đó là lập hồ sơ, thẩm định thiết kế, xin giấy phép xây dựng, giải phóng mặt bằng, thẩm duyệt phòng cháy chữa cháy, nghiệm thu... chuỗi quy trình kéo dài không dưới vài năm.

Câu chuyện của dự án nhà ở xã hội Lê Thành Tân Kiên (huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh) là thí dụ điển hình cho nghịch lý “muốn xây không được”. Dự án đã động thổ suốt nửa năm nay nhưng chưa thể triển khai vì... tắc thủ tục. Doanh nghiệp có sẵn đất sạch, có vốn đầu tư, có thiết kế, có thiện chí phục vụ hàng nghìn lao động thu nhập thấp, nhưng vẫn bị “giam chân” chỉ vì một điểm nghẽn hành chính.

Đáng lẽ, hồ sơ quy hoạch được phép thực hiện theo quy trình rút gọn nhưng lại bị yêu cầu đi theo quy trình thông thường, mãi đến khi trình lên sở mới phát hiện... không cần làm phức tạp đến thế. Theo quy định, thời gian chấp thuận chủ trương đầu tư với dự án nhà ở xã hội chỉ 45 ngày. Nhưng trên thực tế, không ít doanh nghiệp mất đến 5-7 năm để hoàn tất. Hậu quả không chỉ là lãng phí nguồn lực, mà còn phá vỡ toàn bộ phương án tài chính, khiến giá thành nhà ở tăng vọt, đẩy giấc mơ an cư của hàng vạn người lao động ngày càng xa tầm tay.

Đồng quan điểm, ông Phạm Quốc Quân, đại diện Tập đoàn Sun Group đã từng chia sẻ, có những dự án đã hoàn tất đến 95% thủ tục, nhưng chỉ vì 5% còn lại mà mất thêm nhiều năm loay hoay. Trong khi đó, doanh nghiệp hoàn toàn có thể vận hành dự án trong một năm nếu thủ tục thông suốt, nhưng thực tế chỉ riêng khâu chấp thuận chủ trương đầu tư cũng mất 3 - 4 năm.

Tương tự, bà Dương Thanh Thủy, Phó Chủ tịch Tập đoàn Trung Thủy cho rằng, doanh nghiệp nội đang chịu thiệt ngay trên sân nhà. Hiện, Tập đoàn Trung Thủy có hai dự án tại Thành phố Hồ Chí Minh bị đình trệ gần một thập kỷ do vướng thủ tục hành chính, gây thiệt hại không nhỏ. Một trong các dự án đã hoàn thành phần xây dựng nhưng chưa thể mở bán vì chưa đủ điều kiện pháp lý để huy động vốn. Tại Hà Nội, một dự án khác cũng gặp tình trạng tương tự và chỉ mới được gỡ vướng gần đây nhờ chính sách cho phép kinh doanh nhà ở hình thành trong tương lai.

Bà Thủy cho rằng, thủ tục hành chính phức tạp kết hợp với chi phí vốn cao đang làm giảm mạnh sức cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa. Trong khi doanh nghiệp nước ngoài có thể tiếp cận nguồn vốn từ công ty mẹ với lãi suất chỉ khoảng 2%, thì doanh nghiệp trong nước phải chịu mức lãi suất ngân hàng cao gấp nhiều lần, làm đội chi phí và kéo giảm khả năng cạnh tranh ngay từ đầu.

Không riêng các doanh nghiệp bất động sản, kết quả khảo sát mới đây của Hiệp hội Doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, phần lớn doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh đều gặp khó khăn từ khi xin giấy phép hoạt động cho đến quá trình giải thể. Điều này cho thấy nếu không cải cách thể chế một cách quyết liệt và thực chất, thì các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khó phát huy được hiệu quả.

Chuyển trọng tâm sang hậu kiểm

Trong khi đó, theo đánh giá của ông Nguyễn Thanh Tuấn, chuyên gia pháp lý bất động sản, nhiều thủ tục hiện hành có thể tích hợp hoặc loại bỏ mà không ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý. Đơn cử như việc lập kế hoạch sử dụng đất (theo Luật Đất đai) và kế hoạch phát triển nhà ở (theo Luật Nhà ở), hoàn toàn có thể lồng ghép vào giai đoạn quy hoạch nếu làm bài bản ngay từ đầu. Hay việc thẩm định quy hoạch chi tiết 1/500 và thiết kế cơ sở, vốn do Sở Xây dựng cùng đảm trách, cũng hoàn toàn có thể gộp lại thành một bước duy nhất, nếu có cơ chế hậu kiểm hiệu quả đi kèm.

Điều này dẫn đến hệ quả càng kiểm tra chặt ở đầu vào, thời gian triển khai càng dài, chi phí càng cao, niềm tin thị trường càng mỏng. Trong khi đó, chính những bước “tiền kiểm” lại không đủ để bảo đảm an toàn nếu thiếu vắng hệ thống hậu kiểm thực chất. Lúc này, không còn là câu chuyện kỹ thuật mà là một thách thức về tư duy quản trị và năng lực điều phối thể chế.

Hiện tại, các nền kinh tế như Australia, Singapore, Mỹ…, mô hình quản lý dự án xây dựng đang chuyển dần từ “tiền kiểm tuyệt đối” sang “hậu kiểm có trọng tâm”. Theo đó, cơ quan nhà nước không ôm hết việc thẩm định chi tiết từng bản vẽ, từng phép toán kỹ thuật, mà chỉ kiểm tra mức độ tuân thủ quy chuẩn chung. Trách nhiệm chi tiết thuộc về các chủ thể chuyên môn: Chủ đầu tư, tư vấn thiết kế, nhà thầu, giám sát.

Cụ thể, nếu công trình xảy ra sự cố, người chịu trách nhiệm không phải là cán bộ nhà nước đã duyệt hồ sơ, mà là chính chủ đầu tư và đơn vị thiết kế - những người buộc phải có năng lực chuyên môn, chứng chỉ hành nghề và đối mặt với chế tài nghiêm khắc nếu vi phạm. Cách tiếp cận này không chỉ giảm tải cho cơ quan chức năng mà còn tiết kiệm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp, tạo ra một hệ sinh thái đầu tư năng động hơn.

Các chuyên gia cho rằng, đây là xu hướng quản lý hiện đại mà Việt Nam cần nghiêm túc xem xét nếu muốn thật sự cải cách môi trường kinh doanh. Mới đây, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tư nhân ngày 16/5/2025 cũng đưa ra quy định thực hiện chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát.

Trong đó có quy định chuyển việc quản lý điều kiện kinh doanh từ cấp phép, chứng nhận sang thực hiện công bố điều kiện kinh doanh và hậu kiểm, trừ một số ít lĩnh vực bắt buộc phải thực hiện thủ tục cấp phép theo quy định và thông lệ quốc tế…

Việc chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm trong quản lý doanh nghiệp được đánh giá là bước đi đúng hướng nhằm giảm chi phí tuân thủ, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, nếu thiếu cơ chế giám sát đủ mạnh và minh bạch, chính sách này rất dễ bị lợi dụng, gây ra hệ lụy lớn cho nền kinh tế.

Đại biểu Nguyễn Thị Nga (đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương) cho rằng, một số đối tượng đã từng lợi dụng chính sách thông thoáng để thành lập hàng loạt công ty không hoạt động thực chất, nhằm mục đích mua bán hóa đơn, trốn thuế, rửa tiền. Tình trạng này không chỉ gây thất thu ngân sách mà còn làm méo mó môi trường cạnh tranh.

Từ thực tiễn đó, bà kiến nghị Chính phủ khi triển khai các cơ chế hậu kiểm cần có quy định cụ thể và đủ sức răn đe. Trong đó, đáng chú ý là các giải pháp: Liên thông dữ liệu giữa cơ quan thuế, hải quan, ngân hàng; tăng cường kiểm tra thực địa với doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro; ứng dụng công nghệ số trong giám sát và cảnh báo sớm; thiết lập chế tài xử phạt nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm. Đồng thời, cần có danh mục ngành, lĩnh vực bắt buộc duy trì tiền kiểm, dựa trên mức độ rủi ro và thông lệ quốc tế, tránh tình trạng áp dụng tràn lan hoặc nới lỏng không kiểm soát.

Tựu trung lại, hậu kiểm không đồng nghĩa nới lỏng quản lý. Nhiều chuyên gia khẳng định, đây là cách tiếp cận quản trị hiện đại: Kiểm soát đầu vào và đầu ra, nhưng giao quyền đi đôi với trách nhiệm ở khâu trung gian. Cơ quan quản lý nhà nước nên tập trung vào công tác quy hoạch, xây dựng chuẩn mực và xử lý hậu kiểm, trong khi doanh nghiệp và đơn vị thực hiện phải chịu trách nhiệm pháp lý về các hành vi, sản phẩm do mình tạo ra.

Có thể bạn quan tâm

back to top