Nhiệm vụ mới của chính quyền cấp xã về nông thôn mới, giảm nghèo

Trong lĩnh vực nông thôn mới, giảm nghèo, chính quyền cấp xã được giao 8 nhiệm vụ, thẩm quyền mới. Cụ thể, Ủy ban nhân dân cấp xã có 7 nhiệm vụ, thẩm quyền; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có 1 nhiệm vụ, thẩm quyền.

Ông Lường Văn Mười, một trong 63 nông dân xuất sắc Việt Nam năm 2024, ở xã Chiềng Khoong, tỉnh Sơn La, trồng nhãn thoát nghèo. (Ảnh QUỐC TUẤN)
Ông Lường Văn Mười, một trong 63 nông dân xuất sắc Việt Nam năm 2024, ở xã Chiềng Khoong, tỉnh Sơn La, trồng nhãn thoát nghèo. (Ảnh QUỐC TUẤN)

Bảy nhiệm vụ cụ thể của Ủy ban nhân dân cấp xã

Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa ban hành "Sổ tay hướng dẫn thực hiện một số nhiệm vụ, thẩm quyền mới của chính quyền cấp xã theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp - lĩnh vực nông nghiệp và môi trường".

so-tay-chinh-quyen-hai-cap-bo-nong-nghiep-va-moi-truong-1.jpg

Trong Sổ tay, phần giới thiệu một số nhiệm vụ, thẩm quyền mới của chính quyền cấp xã theo mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp có 16 lĩnh vực. Đó là: Trồng trọt và bảo vệ thực vật; Chăn nuôi và thú y, thủy sản và kiểm ngư; lâm nghiệp và kiểm lâm; thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai, đất đai, địa chất và khoáng sản, tài nguyên nước, môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, khí tượng thủy văn, biển và hải đảo, đo đạc và bản đồ; nông thôn mới và giảm nghèo, kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn.

Trong lĩnh vực nông thôn mới, giảm nghèo, chính quyền cấp xã được giao 8 nhiệm vụ, thẩm quyền mới; trong đó, Ủy ban nhân dân cấp xã có 7 nhiệm vụ, thẩm quyền, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có 1 nhiệm vụ, thẩm quyền.

Bảy nhiệm vụ cụ thể của Ủy ban nhân dân cấp xã như sau:

Thứ nhất, tổ chức đánh giá, lấy ý kiến, hoàn thiện hồ sơ xét thu hồi quyết định công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới, xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu theo quy định tại Điều 23, khoản 1 Điều 24 của Quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận, công bố và thu hồi quyết định công nhận địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 ban hành kèm theo Quyết định số 18/2022/QĐ-TTg ngày 2/8/ 2022 của Thủ tướng Chính phủ.

Trong lĩnh vực nông thôn mới, giảm nghèo, chính quyền cấp xã được giao 8 nhiệm vụ, thẩm quyền mới; trong đó, Ủy ban nhân dân cấp xã có 7 nhiệm vụ, thẩm quyền, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có 1 nhiệm vụ, thẩm quyền.

Thứ hai, thành lập Ban Chỉ đạo, xây dựng, ban hành, triển khai kế hoạch rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm trên địa bàn theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Quyết định số 24/2021/QĐ-TTg ngày 16/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm và quy trình xác định hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình giai đoạn 2022-2025.

Thứ ba, hằng năm, tổng hợp, báo cáo về kinh tế trang trại trên địa bàn trong năm gửi Sở Nông nghiệp và Môi trường theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông tư số 13/2025/TT-BNNMT.

Thứ tư, công khai các văn bản thông báo, báo cáo làm căn cứ để xác định sự kiện bảo hiểm trong thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp tại khoản 3 Điều 5 Thông tư số 13/2025/TT-BNNMT.

Thứ năm, chủ trì, phối hợp với các ngành, cấp chính quyền có liên quan lập phương án bố trí ổn định dân cư xen ghép tại khoản 2 Điều 7 Thông tư số 13/2025/TT- BNNMT.

Thứ sáu, xem xét phê duyệt danh sách hộ gia đình, cá nhân tham gia dự án, phương án bố trí ổn định dân cư, ban hành Quyết định phê duyệt bố trí ổn định dân cư tại khoản 5 Điều 7 Thông tư số 13/2025/TT-BNNMT.

Thứ bảy, thực hiện hoạt động đa dạng hóa sinh kế, phát triển mô hình giảm nghèo, hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trên địa bàn; kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, đánh giá và báo cáo định kỳ 06 tháng, hằng năm kết quả thực hiện theo quy định theo chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tại khoản 2 Điều 9 Thông tư số 13/2025/TT-BNNMT.

Cùng với đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có nhiệm vụ, thẩm quyền báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ thoát nghèo, hộ thoát cận nghèo trên địa bàn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 4, khoản 1 Điều 7, điểm c khoản 3 Điều 10 Quyết định số 24/2021/QĐ- TTg.

Đồng thuận cao với hai chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới và giảm nghèo bền vững

lam-giau-tu-vuon-vai-sach-xuat-khau.jpg
Nông dân ở Bắc Giang trồng vải sạch xuất khẩu. (Ảnh TRẦN MINH)

Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025 cho biết, kết quả thực hiện giai đoạn 2021-2025 của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cho thấy, Trung ương đã ban hành đầy đủ các cơ chế, chính sách, văn bản pháp quy. Trong đó, Chương trình xây dựng nông thôn mới ban hành 148 văn bản; Chương trình giảm nghèo bền vững ban hành 33 văn bản để các địa phương cụ thể hóa và triển khai thực hiện phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Ban Chỉ đạo các Chương trình mục tiêu quốc gia được thành lập thống nhất ở cả ba cấp (Trung ương, tỉnh, huyện). Cơ quan tham mưu cũng được kiện toàn từ Trung ương đến địa phương, khắc phục sự phân tán, trùng lặp, nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều phối.

Công tác truyền thông, đào tạo được chú trọng, đổi mới góp phần nâng cao nhận thức và hành động trong cộng đồng. Cụ thể, đã tập huấn cho hơn 12.000 lượt cán bộ về xây dựng nông thôn mới và hơn 734.000 lượt cán bộ, cộng tác viên về giảm nghèo.

Công tác kiểm tra, giám sát được quan tâm, triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, với hơn 6.700 đoàn kiểm tra.

Về kết quả thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, Chương trình nông thôn mới cơ bản đạt và vượt các mục tiêu được giao đến hết năm 2025.

Theo đó, tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới 79,3% so với chỉ tiêu đặt ra là 80%, tăng 10,6% so với cuối năm 2021. Tỷ lệ xã đạt nông thôn mới nâng cao là 42,4% so với chỉ tiêu 40%, tăng hơn 5 lần so với cuối năm 2021. Tỷ lệ xã đạt nông thôn mới kiểu mẫu là 12,3% so với chỉ tiêu 10%, tăng hơn 17 lần so với cuối năm 2021.

Tỷ lệ đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới là 51% so với chỉ tiêu 50% (tăng 53% so với cuối năm 2021); Tỷ lệ huyện nông thôn mới nâng cao là 20%/ chỉ tiêu 20% do tại thời điểm cuối năm 2021 chưa có huyện nông thôn mới nâng cao.

Đã có 12 tỉnh được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới so với chỉ tiêu 15 tỉnh, tăng 8 tỉnh so với cuối năm 2021.

Còn với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2024 là 1,93%, giảm 3,27% so với cuối năm 2022, giảm bình quân 1,03%/năm (đạt mục tiêu giao giảm 1-1,5%/năm).

Tỷ lệ xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng khó khăn là 35,2% (19/54 xã) so với chỉ tiêu 30%.

Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ em dưới 16 tuổi, giảm còn 25,42% so với chỉ tiêu dưới 34%.

Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cũng đã triển khai hơn 10.500 mô hình sinh kế so với chỉ tiêu đặt ra là hơn 1.000 mô hình, vượt xa mục tiêu.

Hỗ trợ kết nối việc làm thành công cho hơn 134.000 lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo/chỉ tiêu là tối thiểu 100.000 lao động, vượt 34%.

Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đã triển khai hơn 10.500 mô hình sinh kế so với chỉ tiêu đặt ra là hơn 1.000 mô hình, vượt xa mục tiêu.

Ban Chỉ đạo Trung ương nhận định, kết quả thực hiện hai chương trình mục tiêu quốc gia tiếp tục khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước, được người dân đồng thuận cao, thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.

Điều kiện sống người dân cải thiện rõ nét, nhất là các địa bàn khó khăn. Hạ tầng nông thôn phát triển đồng bộ, dịch vụ thiết yếu được mở rộng; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh; cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển và chênh lệch vùng miền.

Công tác chỉ đạo, điều hành linh hoạt, tăng cường phân cấp cho địa phương; gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu - nguồn lực - tổ chức thực hiện. Công tác truyền thông, giám sát, phản biện được chú trọng.

Các chương trình cũng đã tiếp cận các xu thế phát triển mới như chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, du lịch nông thôn, dinh dưỡng, đào tạo nghề, tạo việc làm, bình đẳng giới, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) đến năm 2030.

Các phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, cuộc vận động “Toàn dân xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”…, có sức lan tỏa mạnh mẽ, sâu rộng trong cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững.

Có thể bạn quan tâm

back to top