Hoàn thiện quy định về lãi suất cho vay đặc biệt trên cơ sở ý kiến của cấp có thẩm quyền

Đối với quy định lãi suất cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước là 0%/năm, Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính nhấn mạnh cần xin ý kiến kết luận của cơ quan có thẩm quyền, bởi đây là nội dung quan trọng, ảnh hưởng đến an ninh tài chính–tiền tệ quốc gia và nguồn lực của nền kinh tế.

Sáng 10/6, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.

Chỉ cho vay đặc biệt đối với 2 trường hợp

Tại phiên họp, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng đã báo cáo giải trình một số nội dung cụ thể liên quan việc chuyển thẩm quyền phê duyệt khoản vay đặc biệt, lãi suất 0%/năm, không tài sản bảo đảm, từ Thủ tướng thành Ngân hàng Nhà nước.

Về nguồn tiền cho vay đặc biệt, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, việc cho vay đặc biệt được Ngân hàng Nhà nước thực hiện từ nguồn tiền thực hiện chức năng của ngân hàng trung ương về phát hành tiền, không sử dụng nguồn tiền từ ngân sách nhà nước. Do vậy, việc cho vay đặc biệt, lãi suất 0%/năm không dẫn đến rủi ro ngân sách nhà nước phải bù lãi suất.

ndo_br_td-nguyen-thi-hong.jpg
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng. (Ảnh: DUY LINH)

Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo cơ quan chủ trì tiếp tục phối hợp với các cơ quan có liên quan để rà soát các quy định về xử lý các khoản cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước theo quy định về chế độ tài chính của Ngân hàng Nhà nước.

Cũng theo Thống đốc, việc cho vay đặc biệt chỉ áp dụng cho 2 trường hợp: tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt (để chi trả cho người gửi tiền); và để thực hiện phương án phục hồi, phương án chuyển giao bắt buộc của các tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt. Đồng thời, chỉ áp dụng sau khi đã thực hiện các biện pháp nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước như tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở...

"Hoạt động cho vay đặc biệt nhằm mục tiêu bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, không nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các tổ chức tín dụng được vay đặc biệt từ Ngân hàng Nhà nước", Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nêu rõ.

Về cơ chế kiểm soát quyết định cho vay đặc biệt, bà cho biết sau khi dự thảo Luật được Quốc hội thông qua, Ngân hàng Nhà nước sẽ nghiên cứu, rà soát, sửa đổi Thông tư số 37/2024/TT-NHNN liên quan đến tiêu chí, điều kiện cho vay đặc biệt với lãi suất 0%/năm, không tài sản bảo đảm, mục đích sử dụng khoản vay, trách nhiệm của đơn vị được vay và trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước khi cho vay, kiểm soát dòng tiền để tránh rủi ro, tránh lạm dụng chính sách...

ndo_br_cn-phan-van-mai.jpg
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi. (Ảnh: DUY LINH)

Thẩm tra nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi nêu rõ, quy định về lãi suất cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước là nội dung quan trọng, ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng, an ninh tài chính–tiền tệ quốc gia và nguồn lực của nền kinh tế.

Do còn có cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan, Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính đã có Công văn số 29 ngày 5/6/2025 gửi Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp để tổng hợp, báo cáo Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội xin ý kiến kết luận của cơ quan có thẩm quyền về nội dung này.

Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục hoàn thiện quy định về lãi suất cho vay đặc biệt trên cơ sở ý kiến của cấp có thẩm quyền.

Không hạn chế quyền khiếu nại của các bên khi thu giữ tài sản bảo đảm

Đối với quy định về thu giữ tài sản bảo đảm, tại các phiên thảo luận, ý kiến đại biểu Quốc hội quan tâm đến điều kiện thu giữ tài sản bảo đảm, sự tham gia của chính quyền địa phương, cơ chế kiểm soát để tránh lạm quyền trong thu giữ tài sản bảo đảm.

Theo báo cáo giải trình của Chính phủ, thu giữ tài sản bảo đảm không phải là hành động đơn phương, vô điều kiện mà phải tuân thủ phạm vị, giới hạn, điều kiện thu giữ; tôn trọng quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận của các bên. Đồng thời, quy định về trình tự, thủ tục thu giữ, công bằng, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có nghĩa vụ, tổ chức tín dụng và các bên có liên quan.

Bên cạnh đó, vai trò của các cơ quan, chính quyền địa phương nhằm xác nhận tình trạng thực tế và bảo đảm an ninh trật tự xã hội khi tổ chức tín dụng thực hiện biện pháp thu giữ, cũng như để ngăn ngừa việc tổ chức tín dụng lạm dụng quyền khi thu giữ, bảo đảm việc thu giữ công khai, minh bạch, không xâm phạm đến các quyền khác của các chủ thể có liên quan.

Ngoài ra, việc quy định vai trò của Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan công an cấp xã khi thu giữ tài sản bảo đảm sẽ tạo ra ý thức tuân thủ của các tổ chức tín dụng, bên bảo đảm/bên vay, người có liên quan nói riêng và người dân tại địa điểm thu giữ nói chung.

ndo_br_bnd-5617.jpg
Quang cảnh phiên họp sáng 10/6. (Ảnh: DUY LINH)

Về cơ chế kiểm soát để tránh lạm quyền trong thu giữ tài sản bảo đảm, dự thảo Luật quy định các tổ chức tín dụng không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội. Dự thảo cũng không hạn chế quyền khiếu nại của các bên khi thu giữ, đặc biệt là quyền khiếu nại của bên bảo đảm, bên đang giữ tài sản bảo đảm.

Việc thu giữ tài sản bảo đảm nói riêng và hoạt động của tổ chức tín dụng nói chung chịu sự quản lý, kiểm tra, thanh tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có Ngân hàng Nhà nước.

Liên quan vấn đề này, Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị cân nhắc một số nội dung có sự điều chỉnh so với quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 như việc bãi bỏ điều kiện “Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền”; bỏ hình thức công khai thông tin khi thu giữ tài sản bảo đảm thông qua “Niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm và trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản bảo đảm”.

Cơ quan thẩm tra cho rằng việc chỉnh lý quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 cần được xây dựng trên cơ sở cân nhắc lợi ích không chỉ của tổ chức tín dụng mà cả các bên có liên quan.

Đồng thời, các vướng mắc đặt ra trong Báo cáo của Chính phủ có thể được xem xét khắc phục bằng phương án khác như: quy định chi tiết nội hàm tranh chấp và phương thức xác định tài sản có phải đang có tranh chấp hay không; quy định về việc Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở… Do đó, Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị kế thừa các quy định nêu trên tại Nghị quyết số 42 để quy định trong dự thảo Luật.

Có thể bạn quan tâm