Khác với những làng quê truyền thống của Bắc Bộ, Bát Tràng không có lũy tre xanh, không có cánh đồng lúa hay vườn tược tươi tốt. Vẻ đẹp của làng gốm thuộc về không gian rộng mở bên bến sông, nơi thuở xưa những con thuyền ăm ắp gốm sứ, đặc sản trên rừng, dưới biển… nối nhau ra vào.
Nhà nào cũng lò gốm khói tỏa, người người miệt mài bên bàn xoay, bình, lọ, bát, đĩa… Người Bát Tràng làm việc không chỉ bằng đôi tay tài hoa mà còn bằng trái tim đầy niềm đam mê, nhiệt huyết. Đường làng quanh co, nhỏ hẹp, có những con ngõ chỉ vừa đủ cho một chiếc xe máy lách qua, nhưng quanh năm suốt tháng miên man, nối nhịp theo lò gốm.

Từ thuở xưa, nhà cửa trong làng hầu hết là những ngôi nhà gạch lợp ngói vững chãi, san sát nhau, kín cổng cao tường tạo thành quần thể kiến trúc độc đáo. Mỗi nhà đều có sân nhỏ lát gạch, những chậu hoa, tiểu cảnh từ hoa sói, cam, chanh đến gia vị hành, hẹ, ớt… tạo nên không gian gần gũi thiên nhiên mà đầy tính thẩm mỹ, đặc trưng của một làng nghề trù phú, có “của ăn của để”.
Khu làng cổ Bát Tràng rộng khoảng 5,2ha, có hàng trăm năm tuổi với 23 nhà cổ, 16 nhà thờ họ được xây dựng bằng gạch Bát Tràng cổ là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống của làng nghề xưa… Nền tảng tín ngưỡng Bát Tràng vững chắc.
Nghệ thuật làm gốm Bát Tràng được đánh giá cao nhờ sản phẩm đẹp mắt với những phương pháp, bí quyết riêng, góp phần làm nên thương hiệu nức tiếng gần xa.
Theo thời gian, nhiều dòng sản phẩm men ngọc, hoa nâu, men rạn... không đơn thuần là vật dụng, mà đã trở thành tác phẩm nghệ thuật, mang đậm dấu ấn của người thợ Bát Tràng - những người đã làm cho “đất cao lanh bỗng nở đầy sắc hoa”.
Bây giờ, ghé làng gốm, dù cảnh làm ăn có tất bật, sôi động đến mấy, người làng vẫn giữ thói quen mời khách uống trà hoa sói, ăn kẹo lạc, kẹo vừng và kể chuyện làng bằng niềm tự hào dâng trong ánh mắt.
Làng Bát Tràng không chỉ nổi bật ở nghề gốm, mà còn nhờ truyền thống hiếu học, tôn vinh tri thức. Làng tự hào với những danh nhân văn hóa, đặc biệt là các bậc tiên hiền, trạng nguyên, tiến sĩ.

Trong văn chỉ của Bát Tràng, có bia đá trắng với thông điệp “Ngưỡng di cao” mang ý nghĩa khích lệ thế hệ sau không ngừng vươn lên, khát khao học hỏi và đạt được những thành tựu lớn trong cuộc sống.
Dân số Bát Tràng ngày xưa không quá đông đúc, nhưng có tới 364 vị tiên nho, tiên hiền, 1 trạng nguyên, 8 tiến sĩ, 2 quận công. Chỉ riêng họ Lê đã có tới 7 vị làm quan đại thần trong triều. Làng còn có những vị quan võ dũng mãnh trong chiến đấu, góp phần vào những thắng lợi trong lịch sử đất nước, làm rạng danh quê hương.
Khu làng cổ Bát Tràng rộng khoảng 5,2ha, có hàng trăm năm tuổi với 23 nhà cổ, 16 nhà thờ họ được xây dựng bằng gạch Bát Tràng cổ là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống của làng nghề xưa… Nền tảng tín ngưỡng Bát Tràng vững chắc.
Vùng đất địa linh này có đến chín di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc có giá trị, như: chùa Tiêu Giao, đình Giang Cao, miếu Bản, đình Bát Tràng, đền Mẫu, chùa Kim Trúc, văn chỉ Bát Tràng... Đình Bát Tràng có kiến trúc, quy mô bề thế thờ Lục Vị Thành hoàng, người dân làng thường gọi là “Lục Vị Nhà Thánh”.
Trong đình đang lưu trữ 44 đạo sắc phong của các đời vua ban tặng và bức Hoành phi “Hiếu nghĩa cấp công” (Có hiếu có nghĩa được ghi công) nhắc nhớ sự kiện Vua Tự Đức đã lệnh cho làng Bát Tràng làm một lượng gạch rất lớn để xây dựng Kinh đô Huế và các lăng tẩm của các vị Vua triều Nguyễn. Cả làng đã tập trung cao độ, hoàn thành yêu cầu vua ban trong niềm hân hoan cống hiến.
Mỗi năm, vào dịp rằm tháng 2 âm lịch, người dân Bát Tràng lại tổ chức lễ hội truyền thống vừa tôn vinh nghề gốm vừa thể hiện lòng thành kính, tri ân tổ tiên, các vị thần hoàng. Lễ hội diễn ra với nhiều nghi thức trang trọng, như lễ rước nước từ sông Hồng về đình, cầu nguyện cho làng xóm bình an, mùa màng tươi tốt.
Bát Tràng đã bắt đầu đẩy mạnh phát triển sản phẩm du lịch thông minh. Các tiện ích như quét mã QR, sử dụng ứng dụng thuyết minh tự động bằng nhiều thứ tiếng, hệ thống wifi miễn phí… được triển khai nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, thuận tiện cho du khách.
Ngoài lễ hội, các tục lệ như giỗ tổ, vinh quy bái tổ, tục khao vọng cũng rất được coi trọng. Đặc biệt, ngày xưa, tục đón rước những người đỗ đạt về làng là một nét đẹp văn hóa, thể hiện sự trân trọng đối với học vấn và thành quả của con cháu.
Trong ngày lễ này, không thể thiếu món cơm nắm muối vừng và cháo nhừ, món ăn dân dã nhưng đậm đà tình nghĩa gia đình, là cách để thế hệ sau không quên công lao tổ tiên. Năm 2014, lễ hội truyền thống làng Bát Tràng đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Với lịch sử lâu đời và những nét độc đáo, Bát Tràng đã trở thành biểu tượng của nghề gốm Việt Nam và hiện nay còn là một điểm đến du lịch hấp dẫn. Các cơ sở sản xuất gốm tại Bát Tràng đã được đầu tư cải tạo, nâng cấp, tạo ra không gian tham quan, trải nghiệm cho du khách. Đến đây, du khách có thể tham gia vào quy trình sản xuất gốm từ những khâu cơ bản nhất, tạo ra những sản phẩm thủ công.
Đặc biệt, tại Trung tâm Tinh hoa làng nghề Việt (Bảo tàng gốm Bát Tràng), du khách có thể chiêm ngưỡng kiến trúc độc đáo, những tác phẩm tuyệt đẹp và tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển của làng nghề Bát Tràng cũng như sự hội tụ của nhiều loại hình nghệ thuật khác, như: điêu khắc ánh sáng, nghề nón, nghề mây tre đan… do Bát Tràng kết hợp nghệ nhân từ khắp các vùng miền thực hiện.

Bát Tràng đã bắt đầu đẩy mạnh phát triển sản phẩm du lịch thông minh. Các tiện ích như quét mã QR, sử dụng ứng dụng thuyết minh tự động bằng nhiều thứ tiếng, hệ thống wifi miễn phí… được triển khai nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, thuận tiện cho du khách.
Nhiều tour du lịch được phát triển, như tour đạp xe “Dấu chân làng cổ Bát Tràng” hay tour kết nối Hoàng thành Thăng Long với làng gốm cổ mang đến cho du khách cơ hội khám phá những câu chuyện lịch sử đặc sắc gắn liền gốm Bát Tràng.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Bát Tràng Phạm Huy Khôi cho biết: Chính quyền và người dân Bát Tràng đã tích cực tham gia vào công cuộc bảo tồn, phát triển du lịch, với nhiều dự án đầu tư cơ sở hạ tầng như cải tạo, nâng cấp đường giao thông, xây dựng cảng du lịch và khu làng nghề tập trung. Những công trình này vừa phục vụ cho phát triển du lịch vừa góp phần gìn giữ những giá trị văn hóa lâu dài.

Chợ gốm Bát Tràng hoạt động từ năm 2004 đến nay đã có hơn 300 gian hàng được đánh giá là địa chỉ yêu thích cho du khách muốn sưu tầm và trang trí ứng dụng. Bảo tàng gốm Bát Tràng được đưa vào khai thác, sử dụng từ tháng 6/2022 thu hút du khách bởi kiến trúc đặc trưng, mô phỏng hình dáng đất nặn trên bàn xoay thường xuyên đón nhận sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước, đặc biệt là giới trẻ. Nơi đây cũng quy tụ nghệ nhân 19 dòng họ của làng cùng đóng góp các sản phẩm tâm huyết, thực hành nghề… tạo nên bản sắc sinh động.
Ngoài tham quan làng nghề, du khách còn được thưởng thức ẩm thực độc đáo với những món riêng có của làng. Nhiều món ăn truyền thống của làng trở thành biểu tượng cho sự sum vầy, kết nối giữa các thành viên trong và ngoài cộng đồng.
Hưởng ứng chủ trương vận động người dân làm du lịch cộng đồng của chính quyền địa phương, nghệ nhân Phạm Thị Diệu Hoài đã mượn ngôi nhà cổ 300 năm tuổi mở không gian phục vụ khách du lịch muốn thưởng thức các món ẩm thực, góp phần đa dạng hoá các dịch vụ phục vụ.
Trong năm 2019-2020, con đường gốm sứ trên tuyến đường đê sông Hồng qua xã đã được xây dựng với sự tham gia của các nghệ nhân, thợ giỏi làng Giang Cao. Cùng với đó, người dân chung tay vẽ bích họa, kiến tạo những "đoạn đường hoa nở" và thực hiện tốt việc giữ gìn vệ sinh môi trường nhằm tạo cảnh quan đẹp, hấp dẫn.
Những năm qua, lượng khách du lịch đến Bát Tràng đã tăng mạnh mẽ. Tính bình quân, vào cuối tuần, Bát Tràng đón khoảng 5.000 lượt khách tham quan, mua sắm và trải nghiệm. Nghệ nhân Hà Thị Vinh, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Doanh nghiệp xã hội Tinh hoa Làng nghề Việt chia sẻ, làng đã khảo sát và cho vận hành một phần nội dung trong dự án quy mô về du lịch sinh thái làng cổ Bát Tràng.
Ở đó, khách du lịch không chỉ tham quan, xem quy trình sản xuất, mà còn tham gia vào nhiều công đoạn, trải nghiệm: làm gốm, ăn cơm thợ lò… Mỗi người dân đều có thể trở thành một hướng dẫn viên du lịch, một người kể chuyện làng; mỗi hộ dân là một mắt xích của bảo tàng lớn về nghề gốm mà cha ông để lại...
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Văn Bài, nguyên Cục trưởng Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, nhận định: “Làng nghề còn sức sống như Bát Tràng không nhiều và giá trị không chỉ ở nghề mưu sinh mà còn ở tri thức, khoa bảng, ẩm thực… Bên cạnh đó, là một cộng đồng đầy khát vọng vừa vươn lên, vừa gìn giữ di sản cha ông, cho nên những doanh nghiệp trưởng thành từ làng có văn hóa cao, vì lợi ích chung... Do vậy, tour du lịch phải bảo tồn được văn hóa làng, nhưng không phải bảo tồn theo lối “đông cứng”, sự linh hoạt mới tạo động lực và nâng cao sinh kế được cho cộng đồng”.
Họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức, người đồng hành trong việc phát triển du lịch sinh thái Bát Tràng, nhấn mạnh: "Khi chỉnh trang, phải bảo đảm sự hòa quyện giữa cái cũ và cái mới. Điều này không có nghĩa là làm mới hoàn toàn, mà cần phải làm sao để không gian làng nghề vừa hiện đại, vừa giữ được nét đặc trưng truyền thống, gần gũi với cuộc sống của người dân và hoạt động sản xuất. Việc khai thác không gian sống và sản xuất cần tôn trọng, phát huy không gian sản xuất gốm, giữ gìn đời sống nghề gốm, đồng thời tạo cơ hội cho du khách hiểu về quy trình sản xuất thủ công truyền thống".
"Việc kết nối các không gian từ đường làng, ngõ xóm đến từng ngôi nhà, sân, ngõ cũng cần hợp lý, tạo thành một tổng thể thống nhất. Các không gian phải có sự tương tác với nhau, thể hiện sự thay đổi kiến trúc qua các giai đoạn phát triển của làng, đồng thời kể được câu chuyện về lịch sử, văn hóa của làng. Cốt lõi của phát triển du lịch bền vững là kết nối cộng đồng và cần có những chiến lược phát triển khoa học, lâu dài, đặc trưng giúp nâng cao nhận thức của họ, tạo sinh kế một cách hài hòa", họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức nói.