Xác lập địa vị pháp lý và chỉ tiêu cụ thể
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, chiều 12/6, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam.
Phát biểu thảo luận, đại biểu Thạch Phước Bình (Trà Vinh) nêu rõ, việc hình thành trung tâm tài chính quốc tế là bước đi có tính thể chế quan trọng nhằm khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ tài chính khu vực và toàn cầu.
Tham gia góp ý cụ thể, đại biểu cho biết, khái niệm “trung tâm tài chính quốc tế” hiện chỉ dừng ở mô tả định tính, chưa xác định địa vị pháp lý rõ ràng, gây khó khăn trong việc xác lập cơ chế quản lý Nhà nước và mối quan hệ với các cấp chính quyền địa phương.
Thí dụ, chưa rõ trung tâm tài chính quốc tế là đơn vị hành chính, khu chức năng kinh tế hay không gian thể chế chuyên biệt. Điều này cũng chưa xác định Trung tâm tài chính quốc tế có được xem là “khu kinh tế đặc biệt” theo pháp luật hiện hành hay không.
Từ đó, đại biểu kiến nghị bổ sung nội dung xác định trung tâm tài chính quốc tế là “không gian thể chế đặc thù có quy chế pháp lý riêng, được tổ chức theo mô hình khu chức năng tài chính, áp dụng cơ chế thử nghiệm vượt luật trong một số lĩnh vực cụ thể”.
Về mục tiêu phát triển trung tâm tài chính quốc tế (Điều 4), đại biểu cho rằng, mục tiêu của trung tâm tài chính quốc tế được xác định khá toàn diện, từ việc nâng tầm vị thế tài chính quốc gia đến thúc đẩy tài chính xanh và thu hút nhân lực quốc tế. Tuy nhiên, nội dung vẫn thiên về định tính mà thiếu hệ tiêu chí cụ thể để đo lường và đánh giá hiệu quả.
Do đó, ông Bình kiến nghị bổ sung các chỉ tiêu định lượng cụ thể, thí dụ đạt 10 tỷ USD giá trị giao dịch sau 5 năm; thu hút tối thiểu 200 chuyên gia tài chính quốc tế đến làm việc…, đồng thời cần học tập kinh nghiệm của các trung tâm tài chính quốc tế khác trên thế giới đã gắn mục tiêu phát triển với tỷ trọng GDP và chỉ tiêu ngành tài chính trong tổng cơ cấu kinh tế dịch vụ, qua đó làm căn cứ cho hoạch định chính sách và giám sát thực thi.

Cũng bày tỏ thống nhất cao chủ trương xây dựng các trung tâm tài chính quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) cho rằng, đây là một giải pháp đột phá, phù hợp với mục tiêu đưa nước ta tiến lên thành quốc gia phát triển, có vị thế vững chắc trong kỷ nguyên vươn mình, hội nhập sâu rộng.
Dựa vào thực trạng, tiềm lực, vị trí và xu thế phát triển đặc thù riêng của Việt nam, đại biểu đề nghị Chính phủ cần xác định mô hình phát triển trung tâm tài chính của Việt Nam phù hợp với tiềm lực và nhu cầu phát triển, tránh dàn trải hoặc sao chép mô hình của nước ngoài.
Theo nữ đại biểu, có thể xem xét phát triển trung tâm tài chính quốc tế dựa trên các trụ cột ưu thế sau: Trung tâm tài chính kết nối chuyển đổi số và tài chính xanh Đông Nam Á, dịch vụ tài chính hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và chuỗi cung ứng toàn cầu và định hướng trở thành bệ phóng cho đổi mới sáng tạo tài chính.
Việc có một hạ tầng số vững chắc và khả năng phòng thủ an ninh mạng kiên cố là nền tảng sống còn cho một trung tâm tài chính hiện đại. Do đó, đại biểu cho rằng cần chú trọng, có cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển hạ tầng số hiện đại và an ninh mạng.
Ngoài ra, với tiềm năng phát triển công nghệ tài chính (fintech) tại Việt Nam, cần xây dựng khung pháp lý "sandbox" cho phép các công ty fintech thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ mới mà không bị ràng buộc bởi các quy định hiện hành một cách quá cứng nhắc.
Đồng thời, cần nghiên cứu thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm chuyên biệt cho fintech và các vườn ươm để hỗ trợ các dự án khởi nghiệp từ giai đoạn ý tưởng đến thương mại hóa; khuyến khích sự hợp tác giữa các ngân hàng truyền thống, công ty công nghệ, trường đại học và các startup fintech để tạo ra các giải pháp đột phá.

Nêu ý kiến tại phiên họp, đại biểu Nguyễn Quang Huân (Bình Dương) cho biết, theo các chuyên gia, để xây dựng một trung tâm tài chính quốc tế, cần đáp ứng 5 điều kiện cốt lõi là hạ tầng đồng bộ (về tài chính, công nghệ, xã hội...); hệ sinh thái tài chính đầy đủ (sàn giao dịch, ngân hàng, quỹ đầu tư, bảo hiểm, công ty fintech, công nghệ cao, trung tâm dữ liệu tài chính, trung tâm lưu trữ dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, các cơ quan giám sát và dự báo tài chính quốc gia...); khung pháp lý đặc thù (có luật và nghị quyết riêng, cơ chế ưu đãi, sandbox thử nghiệm, chính sách thuế linh hoạt và cơ chế tự do hóa tài khoản vốn...); nguồn nhân lực chất lượng cao (thu hút chuyên gia quốc tế, chuẩn hóa đào tạo theo các chứng chỉ quốc tế, đồng thời bảo đảm trình độ tiếng Anh chuyên ngành tài chính), phát triển bền vững (tài chính xanh, công trình xanh, sàn giao dịch tín chỉ carbon...).
Trên cơ sở phân tích các yếu tố trên, đại biểu cho rằng, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có lợi thế về cơ sở hạ tầng hiện có nên có thể triển khai nhanh, nhưng nếu muốn phát triển đồng bộ và cân bằng vùng miền, Đà Nẵng có thể là lựa chọn chiến lược để hình thành một trung tâm mới từ đầu, theo tiêu chuẩn quốc tế ngay từ khâu quy hoạch.
Ông Huân cho rằng, cần cân nhắc việc đặt trung tâm ở hai thành phố khác nhau, bởi sẽ phải đầu tư xây dựng hạ tầng song song ở cả hai nơi, trong khi diện tích và nguồn lực có giới hạn, và việc chia sẻ hệ sinh thái tài chính giữa hai địa phương cũng không dễ dàng.
Do vậy, đại biểu đề nghị tính toán kỹ về khả năng liên kết với các trung tâm tài chính quốc tế, cân nhắc yếu tố địa lý và định hướng phát triển vùng, từ đó có thể lựa chọn địa điểm và tính toán chi phí đầu tư phù hợp.
Hai nhóm rủi ro cần kiểm soát

Phát biểu giải trình, làm rõ ý kiến đại biểu Quốc hội nêu, Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng nêu rõ, các cơ chế chính sách được xây dựng sau quá trình nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm quốc tế và tham vấn với các định chế tài chính, nhà đầu tư, chuyên gia trong và ngoài nước.
Nhiều chính sách được đề xuất có tính đột phá so với pháp luật hiện hành, đặc biệt trong các lĩnh vực thuế, đất đai, hạ tầng, nhân lực và bảo hiểm đã vượt trội so với các trung tâm tài chính quốc tế khác.
Cùng với đó, có nhiều cơ chế chính sách khác đang từng bước tiệm cận thông lệ quốc tế như mô hình quản lý, sử dụng ngôn ngữ, xuất nhập cảnh, kế toán, lao động, sandbox, fintech, hợp tác công-tư.
Với những chính sách mang tính nhạy cảm, có rủi ro hệ thống cao như chính sách về ngoại hối, giải quyết tranh chấp, bộ trưởng cho biết sẽ được triển khai theo lộ trình có kiểm soát, tránh tác động đến ổn định vĩ mô và hệ thống tài chính quốc gia.
Về rủi ro, Bộ trưởng Tài chính cho hay, có 2 nhóm rủi ro chính cần kiểm soát. Thứ nhất là rủi ro về ngoại hối. Theo đó, trung tâm tài chính quốc tế có thể gia tăng áp lực lên nợ ngoại tệ và nợ nước ngoài của Việt Nam, đồng thời xuất hiện hiện tượng rút vốn nóng, ảnh hưởng tỷ giá và hệ thống ngân hàng.
Do đó, Chính phủ sẽ xây dựng quy định về khai báo, báo cáo, kiểm soát vốn qua tài khoản chuyên dùng, giới hạn huy động vốn ngắn hạn và khuyến khích huy động vốn trung và dài hạn.
Thứ hai là rủi ro từ các sàn giao dịch chuyên biệt như sàn tín chỉ carbon, kim loại quý, nghệ thuật… Theo ông Thắng, các sàn này có thể bị lợi dụng để hợp thức hóa dòng tiền bất hợp pháp thông qua mua bán các sản phẩm trên, rủi ro bị đầu cơ thổi giá, tạo bong bóng tài sản…
Vì vậy, Bộ trưởng Tài chính nhấn mạnh, cần xây dựng khuôn khổ pháp lý đầy đủ, thiết chế giám sát chặt chẽ, minh bạch, có hệ thống, tuân thủ chuẩn mực quốc tế.
Theo bộ trưởng, một số sản phẩm tài chính và sàn giao dịch sẽ do doanh nghiệp chủ động triển khai theo cơ chế thị trường, còn vai trò của Nhà nước là ban hành thể chế, giám sát và bảo đảm an toàn hệ thống.
Về địa điểm đặt trung tâm, bộ trưởng nhấn mạnh, theo kết luận của Bộ Chính trị sẽ thành lập 2 trung tâm tài chính, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh đóng vai trò là trung tâm tài chính quốc tế, còn Đà Nẵng là trung tâm tài chính khu vực.
Tuy nhiên, Chính phủ nhận thấy rằng, nếu phân định cứng như vậy có thể dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh giữa 2 địa phương, ảnh hưởng tới hiệu quả chung.
Vì vậy, Chính phủ đã đề xuất và được Bộ Chính trị đồng ý về mặt chủ trương, thành lập một Trung tâm tài chính quốc tế, nhưng triển khai tại 2 địa điểm, với chức năng và vai trò được phân công rõ ràng, phát huy thế mạnh của từng nơi.