Áp lực vì chi tiêu
Hơn 5 tháng nghỉ việc do doanh nghiệp chuyên sản xuất bao bì ở quận Hoàng Mai (Hà Nội) cắt giảm nhân sự, anh Nguyễn Văn Hưng (trú ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) vẫn loay hoay tìm việc làm mới và cảm thấy áp lực trong chi tiêu với mức hưởng trợ cấp thất nghiệp gần 3 triệu đồng/tháng. Trước đó, vợ anh Hưng vốn là lao động tự do không may bị tai nạn giao thông, đến nay vẫn phải điều trị nên không có nguồn thu nhập. Vì vậy, chi tiêu trong gia đình 4 người phụ thuộc chính vào đồng lương trợ cấp thất nghiệp của anh Hưng và sự trợ giúp của hai bên nội ngoại. “Bây giờ giá điện tăng, giá bát phở cũng tăng khiến tôi càng chịu nhiều áp lực trong chi tiêu hằng ngày, như tiền thuốc của vợ, tiền học hè cho con sang năm thi chuyển cấp, tiền ăn, tiền xăng xe đi lại…”.
Thực tế, với số tiền trợ cấp gần 3 triệu đồng, anh Hưng cũng không dám nghĩ đến các nhu cầu nghỉ ngơi hay học nghề theo diện hưởng trợ cấp. “Nếu tôi học nghề bây giờ chỉ được hỗ trợ 70%, các ngành nghề hỗ trợ 100% thì lại không phù hợp. Số tiền 3 triệu đồng chỉ đủ sinh hoạt bình thường chứ không thể đủ để học thêm nghề trong mấy tháng thất nghiệp”, anh Hưng nói.
Để có thêm thu nhập trong lúc chưa tìm được việc làm mới, lại chăm vợ ốm nằm nhà, anh Hưng nhận chạy xe ôm đưa đón hai cháu học sinh gần nhà đi học ở trường và học thêm. Anh mong muốn sớm có sự điều chỉnh mức hưởng trợ cấp thất nghiệp bằng mức lương tối thiểu vùng để đủ trang trải phần nào cuộc sống khi phải nghỉ việc. “Tôi nghĩ vẫn giữ nguyên mức hưởng 60% hiện tại nhưng ít nhất phải hưởng bằng lương tối thiểu vùng. Như thế mới giúp người lao động an tâm, bởi mức này có thể coi là thấp nhất để bảo đảm cuộc sống cơ bản”, anh Hưng đề xuất.
Cùng gia cảnh, hai vợ chồng anh Lê Mạnh Hải cùng bị mất việc do doanh nghiệp hết đơn hàng gia công may mặc và được hưởng trợ cấp thất nghiệp hơn 5 triệu đồng/tháng. “Với những gia đình cả vợ và chồng đều thất nghiệp, mức hưởng này thật sự sẽ khiến cuộc sống thêm áp lực”. Anh Hải cho rằng, với mức lương đóng bảo hiểm hằng tháng gần 4,8 triệu đồng, anh cảm thấy thiệt thòi và cho rằng, mức hưởng phải bằng mức đóng hoặc thấp nhất 75% mới đáp ứng được cuộc sống cho người lao động khi mất việc. Với những người mới đi làm, theo anh Hải, đóng bảo hiểm hơn 4 triệu đồng đến khi hưởng thất nghiệp chỉ được hơn 2,3 triệu đồng chắc chắn phải khắt khe chi tiêu hoặc phải làm thêm mới bảo đảm được cuộc sống.
Còn chị Nguyễn Thùy Linh, làm công nhân tại một công ty tư nhân trên địa bàn quận Thanh Xuân (Hà Nội) chia sẻ: “Công ty có đóng bảo hiểm thất nghiệp cho công nhân nhưng vì kinh doanh gặp khó khăn nên đến thời điểm tôi nghỉ việc, công ty vẫn nợ bảo hiểm nên chưa chốt được sổ. Điều đó đồng nghĩa tôi không được nhận trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp”.
Theo quy định, người lao động được hưởng trợ cấp bằng 60% bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trong sáu tháng liền kề trước khi nghỉ việc nhưng không quá 5 lần mức lương cơ sở hoặc lương tối thiểu vùng.
Giải thích về vấn đề này, Trưởng phòng Bảo hiểm thất nghiệp (Cục Việc làm, Bộ Nội vụ) Trần Tuấn Tú cho biết: “Một trong những nguyên nhân khiến bảo hiểm thất nghiệp chưa thật sự là “phao cứu sinh” cho người lao động là vì mức đóng không phản ánh đúng thu nhập thực tế. Thí dụ, một công nhân may có thể thu nhập hơn 10 triệu đồng/tháng, nhưng doanh nghiệp chỉ khai lương đóng bảo hiểm thất nghiệp ở mức 6 triệu đồng. Như vậy, dù tỷ lệ hưởng là 60%, thì số tiền thực nhận chỉ khoảng 3,6 triệu đồng/tháng”. Nghịch lý này tồn tại đã lâu khiến người lao động bị thiệt thòi khi mất việc, mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp không đủ bảo đảm cuộc sống tối thiểu.
Theo Luật Việc làm, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của sáu tháng liền kề trước khi người lao động thất nghiệp. Mức hưởng tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở, không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối đa không quá 12 tháng. Nhưng thực tế nhiều doanh nghiệp chỉ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động dựa trên mức lương tối thiểu vùng, mức thấp nhất theo quy định của pháp luật.
Bảo hiểm thất nghiệp phải thật sự là “phao cứu sinh”
Trải qua 16 năm triển khai (từ năm 2009), chính sách bảo hiểm thất nghiệp đang bộc lộ nhiều bất cập. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải nâng tầm chính sách để bảo hiểm thất nghiệp thật sự trở thành “phao cứu sinh” với người lao động thay vì chỉ đơn thuần nhận một khoản hỗ trợ tạm thời. “Trợ cấp thất nghiệp phải giúp người lao động duy trì cuộc sống trong thời gian tìm việc hoặc học nghề khi mất việc làm. Nếu chính sách đóng không tương xứng sẽ rất khó thu hút người lao động tham gia”, Phó Trưởng ban Quan hệ lao động (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) Hồ Thị Kim Ngân chia sẻ.
Đồng quan điểm trên, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm (Sở Nội vụ Hà Nội) Nguyễn Thị Thanh Liễu cho biết: “Việc giải quyết chế độ trợ cấp thất nghiệp chỉ là một phần chế độ ưu việt của bảo hiểm thất nghiệp, mục tiêu quan trọng về lâu dài là chính sách hỗ trợ người lao động nhanh chóng tìm việc làm và quay trở lại với thị trường lao động”.
Để khắc phục những hạn chế trên, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, trong phiên thảo luận về dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) các đại biểu Quốc hội đã đề cập nhiều nội dung mới nhằm phát huy tính ưu việt của chính sách này. Đó là gắn kết chặt chẽ bảo hiểm thất nghiệp với đào tạo lại nghề, hỗ trợ tìm việc, mở rộng đối tượng tham gia và ứng dụng công nghệ số trong giải quyết hồ sơ...
Đại biểu Thạch Phước Bình (đoàn Trà Vinh) cho rằng: “Luật quy định mức hưởng trợ cấp thất nghiệp bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng là quá thấp, khó bảo đảm mức sống trong hoàn cảnh người lao động bị mất việc làm, không có thu nhập. Cần điều chỉnh mức hưởng trợ cấp thất nghiệp tăng lên khoảng 65% mức tiền lương bình quân đóng bảo hiểm thất nghiệp. Trường hợp khủng hoảng kinh tế, dịch bệnh... Chính phủ được phép nâng mức hưởng cho người lao động lên tối đa 75%”.
Ngoài ra, bảo hiểm thất nghiệp hiện chỉ áp dụng bắt buộc với người lao động có hợp đồng, trong khi đó, có tới hàng chục triệu người lao động phi chính thức lại không có cơ hội tiếp cận chính sách. Đại biểu Quốc hội Hà Sỹ Đồng (đoàn Quảng Trị) nêu ý kiến: “Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cũng là người lao động, cũng có thể thất nghiệp khi thực hiện tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế. Chính sách việc làm quy định trong dự thảo luật cần quan tâm đến đội ngũ này, để bảo đảm an sinh xã hội và bảo đảm tính công bằng giữa các lực lượng lao động trong xã hội”.
Về phía Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khi phản biện dự án Luật Việc làm (sửa đổi) cũng đề nghị nghiên cứu, không quy định giới hạn tối đa hưởng trợ cấp thất nghiệp. Lý do là để bảo đảm quyền lợi tương xứng với mức đóng và thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động. Đồng thời hỗ trợ người lao động trong giai đoạn khó khăn khi chưa tìm được việc làm, đặc biệt đối với nhóm lao động lớn tuổi hoặc trong các ngành nghề đặc thù. Một lý do nữa được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đưa ra là tăng cường tính bền vững và hấp dẫn của chính sách bảo hiểm thất nghiệp, khuyến khích người lao động tham gia dài hạn. Hơn nữa, Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp hiện nay được đánh giá là ổn định và có dư địa để hỗ trợ người lao động tốt hơn, nhất là khi chỉ có một phần nhỏ người lao động đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp dài hạn.
Cùng với việc đề xuất tăng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp, một số đại biểu Quốc hội, chuyên gia bảo hiểm xã hội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng đề nghị mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp, trong đó có cán bộ, công chức, viên chức trước tình hình Nhà nước đang thực hiện sắp xếp, tinh gọn bộ máy hành chính hướng tới hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đây sẽ là bước đi chủ động của Nhà nước bảo vệ người lao động khu vực công trong điều kiện mới cũng như bảo đảm quyền lợi và tạo điều kiện thuận lợi cho họ.
Dự kiến, dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) sẽ được Quốc hội thông qua vào ngày 11/6 tới. Đây là cơ hội để nâng tầm chính sách bảo hiểm thất nghiệp từ cứu trợ thụ động sang hỗ trợ chủ động, từ an sinh ngắn hạn sang đòn bẩy phục hồi dài hạn, giúp người lao động tự tin và có điều kiện ổn định cuộc sống.
Để được hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp khi làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc sau: Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn; hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định thời hạn; hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng. Theo mức lương tối thiểu vùng, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp cao nhất đối với vùng 1 là không quá 24,8 triệu đồng. Đối với vùng 2 không quá 22,05 triệu đồng. Đối với vùng 3 không quá 19,3 triệu đồng. Đối với vùng 4 không quá 17,25 triệu đồng.