Bổ khuyết ngay để đến cùng thế giới
Đầu xuân năm Ất Tỵ 2025, nhạc sĩ Đặng Hoành Loan (sinh năm 1942) đã gửi bài thơ mình sáng tác - “Thơ xuân tuổi 83” cho người thân, bạn bè thưởng thức. Trong thơ, ông viết: “Đã qua bát thập được ba năm/Bệnh tật liên miên tưởng phải nằm/Nhờ được ơn trời nên tạm khỏe/Ước gì như thế đến sang năm”. 2 năm chống chọi với ung thư, sự lạc quan trong ông vẫn toát lên dí dỏm.
Năm 1996, khi được phân công làm Phó Viện trưởng Âm nhạc (nay thuộc Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam), ông Loan cùng các cán bộ của viện đã bắt tay ngay vào thu thập, sưu tầm các tư liệu về âm nhạc truyền thống qua các băng thu âm, văn bản Hán Nôm… Sau 2 năm, với khối lượng tư liệu đồ sộ hơn, viện đón nhiều nghiên cứu sinh từ nước ngoài đến nghiên cứu về âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Thế nhưng, bạn bè quốc tế còn thiếu mặn mà với những gì được giới thiệu. Qua tìm hiểu, ông được biết, thứ mà họ đặc biệt quan tâm là những di sản âm nhạc ấy được thực hành như thế nào, vì sao lại thực hành và việc thực hành đem đến lợi ích, thỏa mãn nhu cầu gì cho cộng đồng sở hữu di sản. Những tâm tư của các nghiên cứu sinh nước ngoài gói gọn trong một thuật ngữ mang tên “Dân tộc âm nhạc học” (tiếng Anh: Ethnomusicology).
Từ đó, ông Loan mới vỡ lẽ, những tư liệu thu thanh của Viện Âm nhạc bấy lâu nay còn khuyết thiếu phần phỏng vấn cộng đồng sở hữu di sản âm nhạc, khảo tả về đời sống, văn hóa, lịch sử, phong tục, phương thức trình diễn và những mô tả cần thiết về nhạc khí học, âm thanh học. Viện Âm nhạc đã nhanh chóng lập kế hoạch tìm hiểu, thực nghiệm môn nghiên cứu Dân tộc âm nhạc học.
Bên cạnh tìm hiểu từ các tài liệu nghiên cứu quốc tế, ông Loan đã mời GS,TSKH Tô Ngọc Thanh dạy môn Dân tộc âm nhạc học cho các nghiên cứu viên của Viện. Tiếp sau đó là các lớp dạy về điền dã của các GS người Mỹ và Nhật Bản. Cũng trong thời gian này, mỗi khi GS Trần Văn Khê có dịp về nước, toàn thể cán bộ trong viện lại được nghe giảng về các chuyên đề nghiên cứu âm nhạc truyền thống Việt Nam và thế giới.
Miệt mài đi và cống hiến, kiến nghị
Nhạc sĩ Đặng Hoành Loan đã tổ chức nhiều cuộc điền dã, khảo sát, sưu tầm, phục hồi các diễn xướng âm nhạc dân gian và âm nhạc có tính chuyên nghiệp cao (có chữ viết theo kiểu ký tự và không có chữ viết) của người Việt. Những chuyến điền dã thực địa như vậy kéo dài ít nhất từ 1 tháng đến tháng rưỡi. Sau các cuộc điền dã khảo sát, những người tham gia điền dã phải viết báo cáo khoa học điền dã, phân loại hệ thống các tư liệu. Những bản báo cáo khoa học điền dã lần lượt được đăng trong các số Thông báo khoa học của Viện Âm nhạc. Cùng với đó, nhạc sĩ cùng các nghiên cứu viên chung tay thành lập Phòng trưng bày nhạc cụ truyền thống Việt Nam, xây dựng Ngân hàng dữ liệu Âm nhạc truyền thống Việt Nam, nỗ lực thúc đẩy quảng bá di sản âm nhạc truyền thống ra toàn cầu bằng internet.
Sau 8 năm (từ 1996-2004, cũng là thời điểm ông Loan về hưu), ông cùng các cán bộ đã làm thay đổi đáng kể diện mạo của viện so trước đây. Từ đó, tạo điều kiện tiên quyết để viện hội nhập được với giới nghiên cứu âm nhạc truyền thống thế giới. Năm 2002 khi Viện Âm nhạc chính thức được công nhận là thành viên của Hội đồng Quốc tế về Âm nhạc Truyền thống. Đồng thời, những công trình âm nhạc truyền thống Việt Nam do viện thực hiện được xuất bản, đã đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu âm nhạc truyền thống Việt Nam trong nước và thế giới. Gây tiếng vang gần đây nhất phải kể đến bộ sách gồm 3 tập “Hát Then các dân tộc Tày, Nùng, Thái Việt Nam” (NXB Văn hóa dân tộc) vinh dự được trao giải B Giải Sách Quốc gia năm 2020.
Nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan đã trực tiếp điền dã và hướng dẫn điền dã, xây dựng Hồ sơ quốc gia trình UNESCO ghi danh các Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và Di sản phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp gồm: Ca trù, Hát Xoan Phú Thọ, Đờn ca tài tử Nam Bộ, Bài chòi Trung Bộ, Thực hành Then Tày, Nùng, Thái. Những đóng góp không nhỏ cho âm nhạc truyền thống đã giúp ông được trao tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Huy chương 25 năm ngành Văn hóa, Giải thưởng Trần Văn Khê.
Chứng kiến nhiều di sản âm nhạc trên đà mai một, bị tác động, biến đổi nhiều chiều hướng, theo dòng lịch sử đất nước, ông thường bày tỏ nỗi trăn trở trong các bài viết khoa học và đưa ra không ít đề xuất bảo vệ, gìn giữ các loại hình di sản ấy từ kinh nghiệm thực tế của mình. Vấn đề xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ nghiên cứu vững mạnh, có kiến thức uyên bác luôn được đặt lên hàng đầu.
“Ước gì như thế đến sang năm”. Tiếc rằng, điều ước ông gửi vào thơ lại chẳng thể thực hiện được. Vào hồi 2 giờ 15 phút ngày 3/6, ông ra đi. Trước khi tạ từ, ông đã xuất bản cuốn “Nghiên cứu Nhạc truyền thống Việt Nam: Từ thực tiễn điền dã” (NXB Văn hóa dân tộc, 2024). Đó là tổng hợp các bài viết từng được công bố trong các tạp chí khoa học, các tham luận trong các hội thảo về nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống trên những nẻo đường từ bắc chí nam. Với gần 1.000 trang sách, ông đã để lại cho độc giả những tâm tư, tình cảm tha thiết của mình với âm nhạc truyền thống Việt Nam.
TS Phạm Minh Hương, Viện trưởng Âm nhạc từng nhận xét: “Thời thanh niên sôi nổi, “chú Loan” yêu công việc sáng tác, thích được phiêu du, bay nhảy khắp nơi để viết nhạc, dàn dựng các chương trình biểu diễn”. Những chuyến đi ấy đã khơi gợi cho tác giả Đặng Nguyễn (bút danh của ông) cảm hứng chấp bút nên nhiều tác phẩm âm nhạc giàu giá trị. Có thể kể đến như: tác phẩm hòa tấu 20 cây đàn t’rưng “Suối đàn t’rưng”, độc tấu đàn k’ní “Nghe kể h’ri”, album “Chuyện tình núi và sông”, “Dự cảm”, cùng âm nhạc cho các vở kịch hát mới: “Quạ thần và pho tượng đá”, “Duyên nợ tình đời”, “Chốn quan trường”…