Một “lịch sử thêm dấu” cho kiệt tác
Với đặc thù văn bản Hán Nôm xưa thì theo nhận xét của các chuyên gia: Không có dấu hiệu cho thấy các cụ sử dụng các loại dấu câu khi viết chữ cũng như khắc gỗ để in. Kiểu như dấu chấm (.), phẩy (,), chấm phẩy (;), dấu hỏi (?), chấm than (!)… như trong chữ quốc ngữ sau này. Nhiều bản khắc, chép lại “Truyện Kiều” của người xưa cũng là những câu thơ nối nhau liền mạch, không ngắt nghỉ. Đặc biệt cho đến nay, như một lẽ đương nhiên theo chiều dài thời gian cùng với hệ quả của hạn chế có tính lịch sử trong lưu trữ, chưa phát hiện và thật khó có thể phát hiện được bản gốc “Truyện Kiều”, hay bản viết tay tác phẩm này của chính đại thi hào Nguyễn Du.
Những lý do từ lịch sử đó, cộng với sự lan tỏa rộng rãi chữ quốc ngữ trong đời sống xuất bản, giảng dạy, học tập của Việt Nam trong thế kỷ 20, đã dẫn tới một quá trình mới thú vị. Có thể coi đó là một “lịch sử đánh dấu câu” cho “Truyện Kiều”. Theo sự tóm lược của nhà nghiên cứu Trần Đình Tuấn, Phó Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam, năm 1911, bản “Kim Vân Kiều truyện” của cụ Trương Vĩnh Ký thể hiện mỗi cặp lục bát là một chỉnh thể khi viết hoa đầu câu 6 và không viết hoa đầu câu 8. Thí dụ: “Trải qua một cuộc bể dâu,/những điều trông thấy đã đau-đớn lòng!”. Đến bản “Kim Vân Kiều” của cụ Nguyễn Văn Vĩnh năm 1913 thì lại viết hoa cả hai, như: “Lạ gì: Bỉ sắc, tư phong,/Giời xanh quen mấy má hồng đánh ghen.”.
Và không dừng ở chữ hoa, chữ thường, từ các học giả có nhiều công lao thời ấy cho đến nhiều học giả, chuyên gia sau này, cho đến gần đây, khi soạn, nghiên cứu, chú thích, xuất bản “Truyện Kiều”, đã cho ra nhiều bản Kiều với những cách dùng dấu khác nhau. Có những bản đặt dấu chấm phẩy (;) cuối câu 8. Có những bản bỏ dấu phẩy trong các dòng thơ. Rồi lại có các bản Kiều Nôm phân đoạn như bản “Kim Vân Kiều hội bản” được ghi dấu trên bìa năm 1894 của Hoàng gia triều Nguyễn, hay bản quốc ngữ phân đoạn như “Truyện Thúy Kiều” của Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim in năm 1927…
Làm sao để phục vụ tốt cho đại chúng
Viết hoa, đánh dấu, chia đoạn, thậm chí đặt cả tên đoạn… “giúp” cụ Nguyễn Du, ngẫm ra cũng là “nhiệt huyết đáng yêu” của “con cháu” theo cách đọc, cách hiểu và khát vọng lưu giữ Truyện Kiều - Tiếng Việt trong lòng người Việt. Tiếp nối nguyện vọng đó, với sự phối hợp của Hội Kiều học Việt Nam, Hội đồng Gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền, Viện Nghiên cứu danh nhân, một cuộc trao đổi sôi nổi đã diễn ra trong tọa đàm khoa học “Tìm kiếm phương án tối ưu cho việc trình bày văn bản quốc ngữ Truyện Kiều”. Mục tiêu nhằm hướng tới hoàn chỉnh và có thể xuất bản một văn bản “Truyện Kiều” quốc ngữ thống nhất trên mặt bằng chung về chính tả và việc trình bày, ghi chú phân đoạn, giúp bạn đọc tiếp cận dễ hơn, hiểu rõ nội dung hơn.
Nhiều ý kiến đồng tình nhưng lưu ý cần nghiên cứu, tính toán, sắp xếp thật chặt chẽ, bảo đảm tốt nhất việc lan tỏa vào công chúng phổ thông. Và đó mới là công việc không đơn giản. Nhà thơ Vương Trọng thí dụ, trong “Truyện Kiều”, cụ Nguyễn Du có rất nhiều cặp tiểu đối tài tình. Có thể căn cứ vào các vị trí giữa các cụm từ trong tiểu đối, hoặc theo nhịp thơ để đặt dấu. Còn ở cuối các câu 6 thì không cần để dấu phẩy (,). Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khôi (Phó Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam) đề nghị: Phải đánh dấu thật chuẩn; không nên tự bịa ra tên các chương, phần; và có sự kết nối phục vụ tốt cho xuất bản, in ấn trên các phương tiện đại chúng như sách, báo… PGS, TS Nguyễn Thanh Tùng (Khoa Ngữ văn - Trường đại học Sư phạm Hà Nội) thì nhấn mạnh, nên căn cứ theo quy chuẩn chính tả hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Còn TS Nguyễn Thị Thuận, nguyên giảng viên Trường đại học Hải Phòng thì lưu ý, nên quan tâm nhiều đến đối tượng học sinh và việc sử dụng tác phẩm trong nhà trường, bảo đảm cho các em đọc, hiểu thuận lợi.
Và đem lại nhiều giá trị
Cũng có những lời nhắc cần cẩn trọng như của PGS, TS Trần Thị Băng Thanh, nguyên cán bộ Viện Văn học, bởi dấu nhiều quá cũng không cần lắm, bản thân bạn đọc khi xem các câu thơ cũng có thể hiểu được. Quan trọng là phải chọn bản in với nội dung thật tốt, thật chuẩn trong số không ít bản Kiều được sử dụng, nghiên cứu lâu nay, vốn không ít những chữ, từ khác nhau. Gần với quan điểm này, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Bảo (Phó Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam) cho rằng, nhiều bản đều có những chỗ sai ở chữ này, chữ kia. Nên căn cứ trên một số bản Kiều “Liễu Văn Đường” vào các năm 1866, 1871…
Hoặc, có những ý kiến cho rằng, với một ấn bản “Truyện Kiều” phổ thông như mong ước, thì việc chú thích cần liều lượng, đừng “xé vụn truyện ra”, có lời dẫn thật súc tích, dễ nắm bắt. Và xa, rộng hơn là câu chuyện sử dụng, lan tỏa ấn bản đó thế nào nhằm đóng góp vào các giá trị văn hóa, giáo dục, du lịch, kinh tế… Theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Tài người sáng lập bảo tàng CSO Gallery tại Hội An (Đà Nẵng), nơi đang “đắt khách” với việc lưu giữ, trưng bày hơn 20 nghìn vật phẩm liên quan đến “Truyện Kiều” và nhiều hiện vật độc đáo khác cho rằng, Việt Nam có Nguyễn Du được UNESCO tôn vinh là Danh nhân văn hóa thế giới. Có rất nhiều cách để kể những câu chuyện hay, tổ chức các sự kiện, hoạt động hấp dẫn liên quan đến “Truyện Kiều” dành cho các đối tượng công chúng khác nhau. Trong đó có các bạn trẻ, các nhà ngoại giao, nhiều đoàn du khách từ khắp nơi trên thế giới.