Tôi nhớ những năm thơ ấu của mình, đầu trần chân đất cùng lũ trẻ chạy lon ton, hễ mỗi lần có chiếc xe ngựa lạch cạch đi vào phum[1], là mỗi lần đám trẻ rộn ràng như có hội. Lũ trẻ da sạm nắng, chân trần lấm bụi đất, lại chạy ào ra giữa đường, mắt sáng rỡ như gặp phép màu. Phum tôi nằm khuất giữa những ngọn đồi, cách lộ cái hơn ba cây số đường đất đá lởm chởm. Người từ phum mỗi tháng vài lần rủ nhau ra chợ , mang theo đường thốt nốt, mấy con gà dành dụm bấy lâu để bán. Đến khi chợ vãn, thì lại mua mắm muối, vải vóc, thuốc men mang về. Từ phum ra đến chợ huyện là cả một chuyến hành trình mất gần nửa buổi. Vậy nên ngoài những lần nhà có người đi chợ bán buôn ra, mỗi khi có xe ngựa từ chợ vào, niềm vui bỗng tràn ngập khắp làng như Tết về sớm.
Chiếc xe ngựa lọc cọc chở đầy gạo, muối, mắm và cả những khúc vải màu sặc sỡ... Mỗi món đồ trên xe đều mang theo hương vị của chợ, của phố, của một thế giới mà lũ trẻ chúng tôi chỉ được nghe kể. Người đánh xe không ai khác ngoài chú Phon - nài[2] ngựa quen thuộc. Chú có tấm lưng gầy như cây sào, giọng nói trầm ấm.
Khi xe ngựa đã trút hết hàng hóa vào phum, đám trẻ chúng tôi lại tranh nhau trèo lên thùng xe gỗ, đứa nào cũng ôm mộng một ngày được cầm chiếc roi xà-ích, cưỡi trên lưng ngựa mà phi nước đại qua những con đường quê bụi mờ, oai phong lẫm liệt như một vị tướng quân xông pha trận mạc. Đứa khác thì chỉ ngồi đứng lẳng lặng vuốt ve chú ngựa như muốn hỏi thăm bao điều về chợ huyện, về đoạn đường mà chú ngựa đã đi qua, để rồi tưởng tượng bao câu chuyện đẹp đẽ từ con đường đất vào phum ấy. Bao giờ cũng vậy, trước khi rời phum, chú Phon lại cho lũ trẻ quá giang một đoạn. Chú đánh xe chậm rãi, thong thả để chúng tôi tận hưởng cảm giác phi thường trên cỗ xe gỗ đơn sơ. Đến đầu phum, chú dừng lại, cả đám trẻ lục tục xuống xe, thong thả đi lội bộ quay về, mà mắt vẫn không thôi ngoái lại nhìn cỗ xe ngựa đã đi xa, càng xa, mất hút phía cuối con đường dài thăm thẳm. Khi tiếng vó đã tan, chiếc xe đã mất dạng ở phía xa, bọn trẻ chúng tôi vẫn nhớ như in hình dáng chú nài ngựa với chiếc răng xỉn vàng, mà nụ cười rạng rỡ như ánh nắng xuyên qua tán cây.
Hồi ấy, chỉ cần được vuốt ve bờm ngựa, được nắm lấy cây xà-ích, tôi đã thấy mình oai phong như một chàng kỵ sĩ trong truyện cổ. Giấc mơ tuổi thơ giản đơn đến lạ, chỉ mong một ngày lớn lên, được làm nài ngựa như chú Phon, đi khắp nơi, dù là chỉ từ phum đến chợ huyện, cũng đã thấy đời rộng mở.
Con ngựa của chú tên là Mã Ô - màu lông đen tuyền, mắt sâu và hiền như con suối cuối mùa. Nó đã theo chú Phon suốt mười năm, vượt bao con dốc, lội bao dòng suối. Con ngựa gắn bó với lũ trẻ chúng tôi từ dạo chưa đứa nào biết một chữ bẻ đôi, đến khi ngôi trường cất lên phía bên kia ngọn đồi và đứa nào cũng đọc được những dòng chữ “xe ngựa chở hàng” mà chú ghi bên hông cỗ xe. Nhưng rồi, thời gian lặng lẽ cuốn theo những đổi thay. Đường vào phum được mở rộng dần. Từ con đường mòn từng dấu xe ngựa đến con đường đá, rồi người ta tráng xi-măng và dần lên thành đường nhựa. Nhiều nhà bắt đầu khá hơn, có nhà thuê xe ngựa mỗi ngày để chở hàng ra chợ bán, dần dần họ sắm xe máy, xe tải nhỏ, chạy vào tận sân nhà. Từ dạo đó, mỗi chiều thứ sáu khi từ trường phổ thông dân tộc nội trú ở huyện về phum, tôi thấy bóng dáng chú Phon ngồi buồn hiu hắt bên chiếc xe ngựa đậu bên góc cổng, con ngựa đứng nhai cỏ chậm chạp, đôi mắt của nó cũng buồn hiu. Có lẽ, bây giờ chúng tôi là những vị khách thân quen nhất mà chú trông chờ, ít nhất mỗi tuần hai lượt đánh xe cho chúng tôi từ phum đến trường và ngược lại. Mớ tiền công đó, chẳng bõ bèn, nhưng bao giờ tôi cũng thấy chú mừng vui đón chờ. Và rồi, quy luật tự nhiên cũng đã đến, bóng dáng chiếc xe ngựa cũ kỹ dần lùi xa, mờ nhạt trong buổi chiều khói bếp.
Chú Phon buồn. Chú thủ thỉ với tôi, giọng khản đặc:
- Người ta không thuê xe ngựa nữa rồi. Chú cũng định nghỉ, nhưng bỏ nghề thì con Mã Ô biết sống sao?
Mùa hè năm tôi học lớp mười, biến cố xảy ra. Một chiều mưa, đường trơn trượt, khi con Mã Ô chở gạo vào phum thì sụp phải ổ đá lớn, chân trước trẹo gãy, máu loang đỏ nền đất ướt. Nó ngã quỵ, xe đổ nghiêng, tiếng rên của nó khản đục, đau đớn như một tiếng than. Dân trong phum chạy ra phụ chú gỡ xe, vác gạo vào. Chú Phon quỳ bên con Mã Ô, tay run run vuốt ve bờm, mắt đỏ hoe. Suốt đêm hôm đó, chú không rời nó nửa bước. Con Mã Ô đau đớn, chẳng ăn cỏ cũng chẳng uống nước. Nó nằm rên suốt đêm, chú Phon cứ vậy ngồi kề nó vuốt ve, chú thở dài thườn thượt.
Sáng hôm sau, mọi người bàn nhau, “hay là… an tử cho nó”. Vì ngựa đã gãy chân thì khó mà lành lặn như trước được, vả lại nghề xe ngựa giờ cũng đâu còn nữa. Lời bàn ra bàn vào như nhát dao cứa vào lòng chú Phon. Tôi thấy mắt chú cứ nhìn mọi người, như van xin. Nhìn chú và con Mã Ô, tôi cũng đau nhói như cắt từng đoạn ruột. Đám thanh niên bè bạn tôi trong xóm, từng là những đứa bạn thân của con Mã Ô năm nào cũng bó gối ngồi nhìn với đôi mắt buồn hiu hắt, với những cái lắc đầu…
Tôi không chịu được cảnh đứng nhìn mà bó tay. Tôi chạy về nhà, ôm lấy mẹ mà khóc nức nở, xin ba mẹ hãy cho con đổi con bê nhỏ để lấy con Mã Ô. Ba mẹ nhìn tôi lặng lẽ, bàn bạc đắn đo với nhau hồi lâu, rồi gật đầu. Một buổi chiều, chú Phon đồng ý. Tôi mượn chiếc xe đẩy lớn, đẩy Mã Ô về. Nó như hiểu chuyện, muốn cố lết từng bước nhưng chẳng được, mắt nó đẫm nước. Tôi ôm đầu nó vào lòng, tim thắt lại.
Người trong phum chỉ cho tôi rằng, muốn chữa chân ngựa, phải lên tận núi Cấm tìm thầy Tư - một ông già sống ẩn dật, nổi tiếng với những bài thuốc chữa bệnh cho trâu bò. Không ngần ngại, tôi dậy từ khi gà còn chưa gáy, chuẩn bị cơm nước. Người ta bảo, đường từ phum đến núi Cấm theo lối chim bay chừng chục dặm, nhưng đi đường bộ thì phải mất hơn nửa ngày. Có điều, đường tắt đi nhanh hơn nhưng phải đi bộ, qua hai con suối và lội băng một quả đồi thật là cực nhọc. Tôi chọn đi đường bộ, mong là chân cứng đá mềm để tìm được phương thuốc cứu con Mã Ô. Dọc đường đi, tôi thấy nhiều ngôi nhà để cỗ xe ngựa cũ kỹ trước sân, có những nơi lấy bánh xe ngựa làm đồ trưng bày. Lòng tôi buồn buồn khó tả.
Đi bộ mất hơn nửa ngày theo đường tắt thì đến nơi, tôi quỳ xuống trước thầy, khẩn cầu ông cứu con ngựa của mình. Thầy Tư nhìn tôi, trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
- Nếu con muốn thuốc, thì ở lại đây làm thí công ba tháng. Hằng ngày phải phụ ta hái, sao thuốc, phơi thuốc. Được không?
Tôi không ngần ngại, cúi đầu đồng ý.
Suốt ba tháng hè năm ấy, sáng sớm lên núi, chiều về tôi gùi thuốc sau lưng. Tôi xào thuốc với rượu, đợi khi thuốc ấm thì bó chân cho Mã Ô. Sáng ra trước khi dậy lên núi, tôi lấy thuốc, đưa vào miệng cho Mã Ô uống. Thuốc đắng, tôi năn nỉ, ỉ ôi dần, con ngựa nghe lời. Dường như nó cũng có linh tính và thấu hiểu, nên cũng cố uống cho hết mấy chén thuốc. Ba tháng trôi qua, chân con ngựa lành lại. Mỗi chiều tôi tập cho nó đi quanh phum nhưng bước chậm rãi. Sau đó một năm thì con ngựa đi lại bình thường, nếu không nói nó từng bị gãy chân, ít ai biết được nó từng một lần vào sinh ra tử. Tuy không còn phi nước đại được như xưa, nhưng Mã Ô đã có thể sải bước chậm rãi, vững vàng. Tôi ôm nó, mừng như gặp lại một phần tuổi thơ tưởng đã lạc mất.
Khi con Mã Ô lành hẳn, tôi lên núi để cảm tạ thầy Tư. Hôm ấy hai thầy trò ngồi nói chuyện với nhau cả buổi, thầy dạy tôi những bí truyền sơ cứu cho gia súc, gia cầm rồi thầy tiễn tôi xuống núi. Ông đặt vào tay tôi một quyển sổ dày, chép đầy những bài thuốc quý. Giọng ông trầm trầm:
- Cầm lấy. Không chỉ chữa ngựa, còn giúp được nhiều người.
Từ đó, mỗi khi rảnh rỗi tôi vừa đánh xe ngựa chở thuốc, vừa chữa bệnh cho trâu bò trong phum. Mỗi lần xe lạch cạch đi ngang nhà chú Phon, thấy chú đang vuốt ve con bò mập mạp, tôi lại dừng lại. Chú cười, khoe:
- Con bò này dáng đẹp lắm, chú đợi năm sau khi chùa mở hội đua bò, chú sẽ cho nó đi đua.
Nghe chú nói, tim tôi bỗng reo lên như tiếng trống hội giữa buổi trưa hè - rộn ràng, náo nức mà ấm áp lạ lùng. Trong lòng tôi dậy lên một niềm vui khó gọi thành tên, như thể những ước mơ tuổi thơ từng bị bụi thời gian phủ mờ nay lại được đánh thức.
Tôi lục giỏ xe, móc ra mớ sâm núi mới hái sau buổi ghé thăm thầy Tư ở núi Cấm. Tôi dúi vào tay chú Phon:
- Chú giữ lấy nấu nước uống bồi dưỡng. Hôm đua bò, để con đánh xe chở bầy nhỏ trong phum sang cổ vũ cho chú nghen!
Đúng lúc đó, con Mã Ô bỗng dưng hí vang một tràng dài. Âm thanh ấy không phải tiếng đau như năm nào bị gãy chân bên sườn đồi, mà là tiếng hí trong trẻo, khỏe khoắn như thể chính nó cũng đang hân hoan chia sẻ niềm vui. Lúc ấy, tôi mới chợt nhận ra, từ khi nào tôi đã là một nài ngựa? Không chỉ bởi tôi biết cầm dây cương hay đánh xe, mà bởi tôi đã yêu những bước chân lặng thầm của con Mã Ô như yêu chính tuổi thơ mình ■
[1] Một xóm dân cư của đồng bào dân tộc Khmer.
[2] Tiếng địa phương, có nghĩa là người đánh xe ngựa.