Nền văn học với sứ mệnh thiêng liêng

Vị trí của nhà văn đã được xác định dứt khoát giữa đoàn quân chiến đấu: Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi/ Cùng đổ mồ hôi, cùng rơi giọt máu/ Tôi sống với cuộc đời chiến đấu/ Của triệu người yêu dấu gian lao (Xuân Diệu - Những đêm hành quân). Trong những ngày tháng hào hùng đó nhà thơ Chế Lan Viên đã bày tỏ ước nguyện: Cho tôi sinh giữa những ngày diệt Mỹ/ Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy/ Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng). Khi nhà văn ý thức sâu sắc về trách nhiệm công dân của người cầm bút, khi nhà văn tự giác làm người chiến sĩ trên trận tuyến chống quân thù thì không còn vấn đề băn khoăn giữa lợi ích nghệ thuật và nhiệm vụ chính trị. Nghệ thuật chân chính của mọi thời đại đều bênh vực, bảo vệ quyền sống của con người, đều quan tâm đến số phận con người. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là cuộc chiến bảo vệ sự sống của dân tộc. Số phận của dân tộc gắn chặt với số phận cá nhân trong cộng đồng và điều rất tự nhiên là mối quan tâm lớn nhất của nhà văn lúc này hướng về số phận chung của dân tộc. Giá trị cao đẹp của văn học thời ấy, trước hết là tình cảm nhân đạo rộng lớn dành cho những người trong cộng đồng dân tộc đang bị thế lực ngoại xâm đe dọa, chà đạp và rộng lớn là nhân dân yêu chuộng hòa bình trên khắp hành tinh: Ta vì ta ba chục triệu người, Cũng vì ba ngàn triệu trên đời (Tố Hữu). Ðó là nền văn học của chủ nghĩa nhân đạo cao cả và sứ mệnh thiêng liêng.

Ðó là nền văn học của tình yêu và khát vọng lớn. Khi Tổ quốc bị họa  ngoại xâm thì tình cảm sâu nặng nhất của người dân Việt Nam là tình yêu nước, khát vọng lớn nhất của dân tộc Việt Nam là độc lập tự do. Văn học là tiếng nói tình cảm, là phương tiện bộc lộ, giãi bày chia sẻ của chủ thể sáng tạo với con người. Tình cảm mãnh liệt nhất đang thôi thúc trong tim nhà văn Việt Nam lúc này là tình yêu đất nước. Tình yêu đất nước là nội dung cảm hứng xuyên suốt, nổi bật nhất. Tình cảm đó được biểu hiện phong phú, đa dạng và gắn bó với nhiều tình cảm khác như  tình cảm dân tộc, tình yêu quê hương, tình đồng chí đồng đội, tình yêu lứa đôi, tình người tình đời trong thử thách lớn lao... Tình yêu nước có lúc là nguồn cảm xúc trào dâng đòi bộc lộ: Ôi Tổ quốc! Ta yêu như máu thịt/ Như mẹ cha, như vợ, như chồng (Chế Lan Viên), có lúc thể hiện qua ý thức gắn bó, nâng niu từng mảnh đất mà mỗi người đang sống. Dường như hình ảnh đất, nước, con đường, dòng sông, rừng núi, bầu trời Việt Nam đã trở thành yếu tố thường trực trong tâm trí của người cầm bút. Ðiểm qua tên tác phẩm văn học thời chống Mỹ, cứu nước là chúng ta có thể thấy được mối quan tâm đó: Ðất, Hòn đất (Anh Ðức), Rừng xà nu, Ðất Quảng (Nguyễn Trung Thành), Ước mơ của đất, Những sự tích ở đất thép  (Nguyễn Thi), Ðất ngoại ô, Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Ðiềm), Ðất quê ta mênh mông (Dương Hương Ly), Nước non ngàn dặm, Bài ca quê hương (Tố Hữu), Ði trên mảnh đất này (Huy Cận)... Tình yêu quê hương cũng được thể hiện sâu sắc và đa dạng nhưng thời kỳ này, khái niệm quê hương được mở rộng thành đất nước: quê hương Việt Nam. Gắn quê hương với đất nước, nhìn đất nước trong tình cảm quê hương là một nét mới trong tình cảm người Việt Nam thời chống đế quốc Mỹ. Ý thức về đất nước thống nhất đã giúp những người dân bình dị có tầm nhìn rộng hơn, vượt khỏi giới hạn lũy tre làng. Ðây cũng là cách nhìn của những người luôn đau đáu niềm khát vọng thống nhất non sông đất nước. Việt Nam là đất nước thống nhất, đó là chân lý, là đạo lý, là tình cảm của người Việt Nam mà văn học chống Mỹ, cứu nước đã thể hiện sâu sắc và đầy đủ.

Tiếng nói hào hùng của một dân tộc anh dũng vững tin vào chiến thắng: Âm hưởng hùng tráng của văn học từ thời Lý, thời Trần như vọng về  thời chống đế quốc Mỹ, thời chủ nghĩa anh hùng cách mạng dâng tới đỉnh cao. Chính đặc điểm tinh thần thời đại đã chi phối và quy định âm hưởng chủ đạo của văn học. Hình tượng người chiến đấu, người chiến thắng trở thành nhân vật trung tâm của văn học. Ðó là con người kết tinh vẻ đẹp tinh thần dân tộc, kế thừa sức mạnh truyền thống và được nâng cao nhờ tư tưởng thời đại mới. Con người ấy đại diện cho dân tộc, nhân dân, cho non sông đất nước; con người được soi chiếu từ tọa độ thời gian lịch sử và không gian đất nước mênh mông. Từ góc độ ấy mà hình tượng người chiến đấu mang tầm vóc lớn lao: Hoan hô anh giải phóng quân/ Kính chào anh con người đẹp nhất/ Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất/ Sống hiên ngang bất khuất trên đời/ Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi (Tố Hữu). Và khi họ hy sinh cũng hiện lên trong dáng đứng hiên ngang của dân tộc: Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ/ Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường/ Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ (Lê Anh Xuân). Trong các tác phẩm truyện, ký, hình tượng người chiến đấu chống giặc cứu nước hiện lên với tư cách là người anh hùng thời đại, tiêu biểu cho sức mạnh to lớn và phẩm chất cao đẹp của dân tộc. Hình tượng chị Sứ (Hòn đất của Anh Ðức), Chị Út Tịch (Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi), anh Trỗi (Sống như Anh của Trần Ðình Vân), Tnú (Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành), Mẫn (Mẫn và tôi của Phan Tứ)... được khắc họa với nhiều vẻ của con người Việt Nam trong cuộc sống chiến đấu. Tâm hồn của họ luôn lạc quan hướng tới tương lai tươi sáng. Niềm lạc quan yêu đời của con người trong kháng chiến đã tạo nên cảm hứng lãng mạn bay bổng trong văn học. Ðó là chất lãng mạn xuất phát từ thực tế cuộc sống chứ không phải từ ý tưởng chủ quan của nhà văn. Chất lãng mạn của văn học chống Mỹ một phần xuất phát từ vẻ đẹp tâm hồn của thế hệ trẻ cầm bút và đang cầm súng trên các chiến trường như Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành, Phan Tứ, Nguyễn Quang Sáng, Trần Hiếu Minh, Giang Nam, Thanh Hải, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Ðiềm, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Anh Ngọc, Hoàng Nhuận Cầm... Họ là những người thông minh, trẻ trung, sôi nổi và nhạy cảm. Họ đến với cuộc sống chiến đấu với tâm hồn nghệ sĩ, rất mực lãng mạn hào hoa. Họ nhìn thấy bóng dáng người thương qua cây xấu hổ dọc đường hành quân, họ mang theo tiếng ve vào trận mạc, họ đón nhận tiếng chim hót say mê trên đồi chốt, họ sống trong không gian thơ mộng ngay giữa chiến trường: Thắng rồi trận đánh thọc sâu/ Lại về với mái tăng- Bầu trời vuông/ Sục sôi bom lửa chiến trường/ Tâm tư yên tĩnh vẫn vuông một vùng. (Nguyễn Duy - Bầu trời vuông). Tiếng nói nghệ thuật của nhà thơ thời chống Mỹ, cứu nước là tiếng nói của người trong cuộc. Họ làm thơ ghi lấy cuộc đời mình, chất liệu đời sống hiện thực đi vào trang thơ tự nhiên, không cần trang điểm, bởi cuộc sống là bài thơ và bản thân người cầm bút đã có chất thơ cuộc sống. Sau này khi chiến tranh đã đi qua, những xúc cảm một thời sôi nổi đã lắng xuống, không ít người hoài nghi về tính chân thực trong văn chương chống đế quốc Mỹ, hoài nghi về tình cảm lãng mạn bay bổng của các nhân vật văn chương. Nhưng thực tế, đó là gương mặt tinh thần của một thời đại in dấu trong tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên, cuộc sống kháng chiến không chỉ có niềm vui, niềm tin và thắng lợi nhưng dân tộc ta biết kìm nén đau thương, biết vượt lên mình để có thêm sức mạnh. Nếu không biết hy sinh, không biết vị tha, không biết vượt lên hoàn cảnh thì chúng ta không thể đủ sức đi tới ngày thắng lợi. Nhà thơ Tố Hữu đã khắc họa rất đúng chân dung tinh thần con người và Tổ quốc Việt Nam trong những năm gian khổ của cuộc kháng chiến đó: Việt Nam, ôi Tổ quốc thương yêu/ Trong khổ đau, người đẹp hơn nhiều/ Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng/ Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng/ Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời (Chào xuân 67). Chiến tranh là gian khổ, đau thương, là phải sống trong đời không bình lặng. Nhưng điều kỳ diệu của dân tộc Việt Nam là tìm được khoảng yên tĩnh cho tâm hồn mình. Ðó là lúc chúng ta nhìn cái bất thường như là cái bình thường của cuộc sống. Khi báo động thường xuyên, Cảnh Trà cảm thấy như là trong báo yên, lúc ở giữa chiến trường, nhà thơ Phạm Tiến Duật nghe tiếng bom rất nhỏ, ngay sau khi máy bay kẻ thù bị diệt nhà thơ Huy Cận nghe tiếng gà cục tác, báo với đời thêm một trứng tròn to. Sự sống vẫn sinh sôi nảy nở không ngừng, cuộc sống thường nhật của con người vẫn diễn ra bình thản. Phải chăng dân tộc ta đã tìm thấy sức mạnh kỳ diệu của mình trong vùng yên tĩnh của tâm hồn, lấy cái bất biến này để ứng với cái vạn biến của chiến tranh?

Sau ba mươi năm nhìn lại, chúng ta càng nhận thấy,  văn học thời kỳ chống Mỹ, cứu nước đã làm tròn sứ mệnh thiêng liêng, góp phần làm nên chiến thắng, tỏ rõ sức mạnh Việt Nam và trả lời những vấn đề lớn lao của thời đại.

Có thể bạn quan tâm

back to top