Tập trung tiềm năng để phát triển công nghiệp dược

Tuần lễ Chăm sóc Sức khỏe quốc tế - IHW được tổ chức từ ngày 16 - 18/7 tại Trung tâm Triển lãm và thương mại quốc tế Malaysia (MITEC), Kuala Lumpur được coi là sự kiện y tế lớn và có ảnh hưởng nhất Đông Nam Á. Tuy nhiên, Việt Nam tham gia chỉ với số ít gian hàng.

Doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm được chiết xuất từ nghệ tại triển lãm y - dược. Ảnh: NAM ANH
Doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm được chiết xuất từ nghệ tại triển lãm y - dược. Ảnh: NAM ANH

IHW 2025 quy tụ 900 đơn vị với 15.000 sản phẩm, dịch vụ y tế, thu hút hơn 21.000 khách tham quan từ 50 quốc gia, với 125 hội nghị và diễn đàn. Ngoài gian hàng của doanh nghiệp, triển lãm còn có các gian hàng chuyên biệt, trưng bày công nghệ và sản phẩm tiên tiến từ các nước có dịch vụ chăm sóc sức khỏe (CSSK) hàng đầu, như: Trung Quốc, Đức, Ấn Độ, Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan, Mỹ.

Doanh nghiệp Việt chưa “mặn mà”

Tại một triển lãm y tế lớn, hứa hẹn mang lại nhiều cơ hội hợp tác, đầu tư, đặc biệt là nắm bắt các xu thế về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tuy nhiên, đoàn đến từ Việt Nam lại khá “mỏng”. Nhiều “tên tuổi lớn” ngành dược như Hậu Giang, Traphaco, Bidiphar, Imexpharm… đều vắng bóng. Theo TS Nguyễn Đình Minh, Tổng Thư ký Hiệp hội Sản xuất - Kinh doanh Thuốc Thú y Việt Nam: “Mục đích tham dự IHW lần này của Hiệp hội là tìm hiểu các công nghệ, nguyên liệu mới, nhất là về thảo dược để áp dụng sản xuất trong nước. Qua nhiều cuộc trao đổi, thương thảo, thu được hiệu quả rất tốt, mở ra không ít cơ hội hợp tác mới”.

Số gian hàng của Việt Nam tại triển lãm đếm trên đầu ngón tay. Gian hàng “made in Vietnam” được trưng bày “bắt mắt” nhất là dây chuyền sản xuất bao bì, nhãn mác. Tâm thế “giao lưu, học hỏi” vẫn thường trực trong các đoàn Việt Nam khi tham dự triển lãm hàng hóa, dịch vụ tầm khu vực và thế giới. Đặc biệt là một lĩnh vực đòi hỏi chiến lược đầu tư bài bản, nghiên cứu chuyên sâu, đột phá về khoa học, công nghệ như CSSK. Xét về mặt thị trường, sản phẩm, dịch vụ nội địa còn lép vế, thua thiệt ngay trên “sân nhà”, nói gì đến tranh đua sòng phẳng trên sân chơi quốc tế.

Với ngành công nghiệp dược, mục tiêu xuất khẩu 1 tỷ USD vào năm 2030, đóng góp 20 tỷ USD vào GDP năm 2045, vươn lên ngang tầm với các nước trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thái Lan mà Chiến lược phát triển ngành dược đến năm 2030, tầm nhìn 2045 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1165/QĐ-TTg năm 2023 vẫn còn cách quá xa tầm với.

Qua IHW 2025 cho thấy, ngành dược Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn. Lớn nhất là việc phụ thuộc gần như hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu, với hơn 90%. Sản xuất trong nước chủ yếu là các hoạt chất hữu cơ, các hóa dược có tác dụng thì hầu như chưa sản xuất được. Sức cạnh tranh vì thế bị ảnh hưởng do biến động giá năng lượng, sức ép từ tỷ giá, rủi ro từ chuỗi cung ứng… Phần lớn doanh nghiệp sản xuất các loại thuốc “phổ thông”, thuốc generic (loại thuốc giống thuốc gốc nhưng bằng sáng chế hết hạn) có giá trị thấp, vừa phải cạnh tranh với thuốc generic nhập khẩu, vừa cạnh tranh nội bộ ngành, dẫn đến sản xuất chồng chéo, tranh giành cùng phân khúc thị trường giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau. Có tình trạng một số công ty còn “lách luật” bằng cách, dù cung cấp thuốc nhưng lại dưới “mác” thực phẩm chức năng, vì chỉ cần 3 giai đoạn kiểm nghiệm, thay vì 4 như với thuốc chữa bệnh. Thêm nữa, sau hàng loạt vụ thuốc giả, thực phẩm chức năng giả bị phanh phui, khủng hoảng nhân sự... ngành dược đã khó, càng thêm khó.

Là nước nông nghiệp có quỹ đất lớn, có tiềm năng về dược liệu, y học cổ truyền, nhưng chúng ta phải bỏ ra tới 3,5 tỷ USD (năm 2024) để nhập khẩu, trong khi xuất khẩu chỉ đạt hơn 280 triệu USD. Tự sản xuất nguyên liệu nhằm tăng giá trị thặng dư, tiết kiệm ngoại tệ là hướng đi đúng, nhưng không hợp lý, “thực tế”. Nhất là trong xu thế sản xuất theo mô hình chuỗi cung ứng toàn cầu hiện nay. Để đầu tư từ vùng trồng đến nhà máy sản xuất, vốn đầu tư rất lớn và mất nhiều thời gian, trong khi các sản phẩm tương tự từ Ấn Độ, Trung Quốc sẵn có, hết khấu hao từ lâu, giá thành rẻ hơn rất nhiều.

Lý giải cho sự kém mặn mà của doanh nghiệp Việt, sau khi kết thúc triển lãm, bà Nguyễn Diệu Hà, Tổng Thư ký Hiệp hội Dược cho rằng, triển lãm chuyên đề như IHW 2025 không phù hợp với số đông doanh nghiệp. Vì đầu vào, đầu ra chúng ta chưa xuất nhập khẩu với các nước ASEAN. Nguyên liệu nhập khẩu thì đã có nguồn rồi. Còn xuất khẩu thì lại phụ thuộc vào chính sách pháp luật của Việt Nam và nước nhập khẩu. Sau triển lãm, Hiệp hội Dược có trao đổi với Tham tán thương mại Việt Nam tại Malaysia về hỗ trợ tìm kiếm thị trường, thì được gợi ý là phải đề nghị lên Chính phủ hỗ trợ về chính sách, Bộ Ngoại giao “giao việc” cho Tham tán thương mại ở các nước trực tiếp “vào cuộc” thì mới hiệu quả.

Số doanh nghiệp Việt Nam tham gia IHW 2025 rất hạn chế còn có nguyên nhân từ chi phí (riêng đầu tư cho một gian hàng đã là 200 triệu đồng); thủ tục để mang dược phẩm sang trưng bày, quảng bá (tạm xuất tái nhập) cũng khá phức tạp và tốn thời gian. Như vậy có thể thấy, trong bối cảnh nhiều khó khăn, các đơn vị đã phải “lựa cơm gắp mắm”, chỉ lựa chọn những “sân chơi” thực chất, tạm gác lại những mục tiêu dài hạn.

Điểm sáng công nghệ sinh học dược phẩm

IHW 2025 có thêm chuyên đề chia sẻ về công nghệ sinh học, vaccine. Đây chính là cơ hội để Vabiotech, một công ty Việt Nam (Công ty TNHH MTV Vaccine và Sinh phẩm số 1) “chiếm sóng”, ghi dấu ấn tại triển lãm quốc tế hàng đầu về sức khỏe này. Theo Tập đoàn IMARC, thị trường dược phẩm sinh học tại Việt Nam có giá trị 1,3 tỷ USD năm 2024, dự kiến đạt gấp đôi, 2,6 tỷ USD vào năm 2033, tốc độ tăng trưởng kép hằng năm (CAGR) lên tới 8,13% trong giai đoạn 2025-2033. Cơ sở cho tỷ lệ tăng trưởng này không chỉ đến từ dân số đông (gấp ba lần Malaysia) mà nhu cầu về sản phẩm điều trị các bệnh có tỷ lệ lưu hành cao tại Việt Nam và trên toàn cầu, như ung thư, các rối loạn miễn dịch (gồm các bệnh tự miễn), rối loạn chuyển hóa và bệnh tim mạch.

1000005251.jpg
Tham luận "Công nghệ sinh dược, vacine của Việt Nam - cơ hội và thách thức" tại IHW 2025, được nhiều doanh nghiệp quan tâm.

Một dấu mốc quan trọng đối với ngành sản xuất vaccine là Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã lựa chọn Việt Nam là quốc gia được chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine mRNA, giúp tự chủ sản xuất vaccine, đáp ứng nhu cầu trong nước, hướng tới xuất khẩu. Việt Nam cũng có những bước đi chiến lược để sớm tiếp cận công nghệ tiên tiến này. Công ty CP Vaccine Việt Nam (VNVC) đã ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược với Quỹ Đầu tư trực tiếp Nga (RDIF) về chuyển giao công nghệ và sản xuất vaccine tiên tiến, bao gồm vaccine mRNA điều trị ung thư do Nga phát triển. Dự kiến, vaccine này sẽ có mặt tại Việt Nam trong tương lai gần, mở ra một chương mới trong cuộc chiến chống ung thư.

Nhận thấy tiềm năng và giá trị lớn của công nghệ sinh học dược phẩm (hay công nghệ sinh dược), một số doanh nghiệp trong nước đang thực hiện chuyển đổi quá trình sản xuất từ truyền thống sang tập trung vào công nghệ cao. Điển hình là Công ty Bidiphar khi đầu tư gần 500 tỷ đồng để xây dựng nhà máy sản xuất thuốc ung thư công nghệ cao tại Khu kinh tế Nhơn Hội (Gia Lai) với dây chuyền sản xuất tự động và khép kín.

Khi đánh giá trong bối cảnh khu vực Đông Nam Á, ngành dược phẩm sinh học của Việt Nam đang thể hiện một quỹ đạo phát triển độc đáo và đầy hứa hẹn. Quan điểm về thu hút đầu tư trong phần thuyết trình của Vabiotech tại hội thảo: “Lợi thế cạnh tranh cốt lõi của Việt Nam không nằm ở mức độ trưởng thành hiện tại mà nằm ở tốc độ và quy mô chuyển đổi. Với các nhà đầu tư, đối tác và các bên liên quan trong ngành dược phẩm toàn cầu, tham gia và đồng hành cùng Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi này không chỉ là cơ hội kinh doanh mà còn là khoản đầu tư chiến lược vào một trong những câu chuyện phát triển năng động nhất của ngành dược phẩm sinh học toàn cầu trong thập kỷ tới” đã thuyết phục được những công ty hàng đầu khu vực và thế giới. Hy vọng thời gian tới, ngành công nghệ sinh học, vaccine Việt Nam thu hút được nhiều “đại bàng” trong ngành dược phẩm thế giới hợp tác đầu tư, tạo thêm nguồn lực giúp rút ngắn quá trình đi đến mục tiêu chiến lược đã đề ra.

Nên chăng, đây cũng là hướng phát triển mới cho ngành CSSK Việt Nam nói chung, ngành dược phẩm nói riêng: chỉ tập trung đầu tư vào những lĩnh vực tận dụng được tiềm năng, lợi thế nội địa, đáp ứng được nhu cầu CSSK ngày càng cao trong nước và quốc tế, dựa trên nền tảng nghiên cứu, chuyển đổi số, nhất là trí tuệ nhân tạo. Trong đó công nghệ sinh dược cần phải được ưu tiên ở cấp độ cao nhất, mới có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh, trên sân nhà cũng như khu vực ASEAN trong tương lai.

back to top