Theo chỉ đạo của UBND tỉnh TT- Huế, mới đây Thanh tra sở VHTT & DL, Bảo tàng lịch sử cách mạng tỉnh đã tiến hành thu hồi chiếc thuyền độc mộc cổ từ tay ông Tôn Thất Ấn. Đến ngày hôm nay chiếc thuyền đã có một chỗ đứng trang trọng tại bảo tàng lịch sử cách mạng trong khi những tranh cải xung quanh vụ “tịch thu” này vẫn chưa ngã ngũ.
Công hay tội?
Trở lại thời điểm cách đây hơn 3 tháng. Trong một lần khai thác cát sạn ở ngã ba Tuần, gia đình ông Lì đã phát hiện, trục vớt một “khúc gỗ” kì lạ (sau này được xác định là chiếc thuyền độc mộc cổ). Đến ngày 15.5, qua nguồn tin báo thanh tra sở VHTT, DL tỉnh, bảo tàng lịch sử cách mạng tỉnh đã đến gặp gia đình ông Lì, tiếp xúc với khúc gỗ vừa phát hiện để “nghiên cứu”. Sau khi xem xét, đại diện bảo tàng LSCM tỉnh đã đặt vấn đề đưa chiếc thuyền về bảo tàng để nghiên cứu, trưng bày và “thưởng” cho ông Lì 6 triệu đồng vì có công phát hiện, trục vớt. Nghe xong ông Lì hẹn đến tối sẽ trả lời vì “phải tham khảo ý kiến gia đình”.
Chẳng hiểu “tham khảo” như thế nào mà ngay trong chiều tối hôm đó, ông Lỳ đã bán “khúc củi” cho ông Tôn Thất Ấn với giá 6.5 triệu đồng. Mua được khúc gỗ, ông Ấn đã cho người đưa về nhà, nhờ những người am hiểu văn hoá lịch sử thẩm định. Trong thời gian này, UBND huyện Hương Trà đã có văn bản “hoả tốc” yêu cầu ông Ấn không được bán chiếc thuyền độc mộc cổ trong vòng 6 tháng.
Đáng lẽ, chiếc thuyền đã được đưa về bảo tàng sớm hơn. Nhưng do phía ông Ấn không hợp tác nên đến ngày 24.6, UBND tỉnh TT- Huế buộc phải ra quyết định thu hồi. Theo ông Văn Đình Thanh, sau khi thu hồi bảo tàng sẽ hoàn lại số tiền 6.5 triệu đồng tiền mua thuyền cộng thêm tiền công vận chuyển cho ông Ấn. Ngoài hai khoản trên, ông Ấn không được nhận khoản thiền thưởng vì “không phải là người có công phát hiện”.
Tuy nhiên, về phía ông Ấn thì “đây là điều không thể chấp nhận”. Lập luận cho nhận định này, đại diện pháp luật cho ông Ấn- Luật sư Nguyễn Thanh Phước, đoàn luật sư TT- Huế cho rằng “Người dân vạn đò chỉ có công phát hiện khúc củi, đến tay ông Ấn khúc củi đó mới được xác định là cổ vật. Thế nên ông Ấn phải được xem như người có công phát hiện và xứng đáng được hưởng khoản tiền thưởng”.
Vụ tranh cải này đến nay chưa ngã ngũ. Nhưng theo thanh tra sở VHTT, DL tỉnh TT- Huế thì “từ đầu bảo tàng đã biết đó là cổ vật vì thế không thể nói ông Ấn là người có công phát hiện. Hơn thế, ông Ấn đã có hành vi tranh mua tranh bán với Bảo tàng. Điều này đã vi phạm luật di sản văn hoá”.
Mỗi nơi làm mỗi phách
Không phải đến bây giờ mà trước đó trong một vụ tương tự, lực lượng chức năng của sở VH,TT& DL tỉnh TT-Huế cũng đã vấp phải phản ứng của dư luận. Cụ thể, sau khi những người thợ lặn phát hiện 10 khẩu súng thần công cổ ở cửa biển Thuận An, giới sưu tầm cổ vật và những người thu gom phế liệu đã lập tức đổ về mua, tẩu tán số súng nói trên. Sau những nỗ lực thu hồi cổ vật, thanh tra VH,TT&DL tỉnh, Bảo tàng LSCM tỉnh và PA 25 công an tỉnh TT- Huế đã thu hồi được 4/10 khẩu thần công cổ từ tay một người sưu tầm cổ vật. sau đó, bảo tàng LSCM TT- Huế đã hoàn trả số tiền mua súng, cộng thêm tiền công vận chuyển tất cả các khoản cộng lại trên đưới 80 triệu đồng.
Kết thúc vụ thu hồi súng thần công cổ, ở TT- Huế đã có một số ý kiến cho rằng cần phải có chính sách phù hợp nhằm hạn chế tình trạng “chảy máu” cổ vật Huế. Trong một số bài viết trên các báo, những người bảo vệ quan điểm này cho đã dẫn ra một số cách làm khác ở tỉnh Quảng Trị. Ví dụ Ngày 21.8.1998, anh Nguyễn Văn Hải, chủ một đại lý phế liệu ở thị xã Đông Hà sau khi mua lại một chiếc trống đồng của người dân đào phế liệu (tại thôn An Khê, xã Gio Sơn, huyện Gio Linh) đã báo cho Bảo tàng tỉnh đến mua lại. Sau khi điều tra nguồn gốc, Bảo tàng tỉnh Quảng Trị đã thỏa thuận và mua lại với giá 5 triệu đồng.
So sánh các trường hợp ở TT- Huế và Quảng Trị đã cho thấy, thay vì ở TT- Huế áp dụng phương pháp “tịch thu” theo quy định của luật di sản văn hoá “Mọi di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia trong lòng đất thuộc đất liền, hải đảo, ở vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa... đều thuộc tài sản của Nhà nước” thì tỉnh Quảng Trị đã đi “mua lại”. Điều này đã cho thấy sự bất nhất khi vận dụng luật ở các địa phương.
Thiết nghĩ, Luật Di sản văn hoá ra đời năm 2001 là một bước phát triển rất lớn ngành luật Việt Nam về bảo vệ di sản, và là một bước tiến dài so với Pháp lệnh Bảo vệ di tích được ban hành năm 1984. Những điều luật nhằm bảo vệ cổ vật được qui định trong điều luật này đã được Quốc hội thông qua tại kì họp thứ 9, vì vậy, muốn có sự thay đổi, trước hết phải được đưa ra thảo luận trước Quốc hội. Trước khi có những qui định mới, đề nghị các địa phương cần có sự thống nhất trong vận dụng luật, tránh để xuất hiện những sự ứng xử khác biệt ở từng địa phương. Điều này vô tình tạo nên sự so sánh tiêu cực dẫn đến những vụ khiếu kiện kéo dài, đồng thời “làm khó” cho những người thực hiện chức năng quản lí nhà nước về văn hoá ở các địa phương.