Tháng 12/1972, bầu trời Hà Nội chứng kiến một cuộc đối đầu không khoan nhượng, không chỉ giữa con người và vũ khí mà còn là giữa trí tuệ chiến thuật và công nghệ hiện đại. Thiếu tướng Ngô Huynh, nguyên Tư lệnh Quân chủng PKKQ, khẳng định cách đánh B52 trong Chiến dịch Phòng không tháng 12/1972 hội tụ từ các kết quả nghiên cứu trực tiếp trên chiến trường và được vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở Hà Nội.
Không có sự ngẫu nhiên nào cả. Hàng loạt chiếc pháo đài bay rơi rụng trên bầu trời Hà Nội là kết quả của sự chuẩn bị công phu, những cải tiến không ngừng và ý chí sắt đá của những người lính.
SAM đối đầu “Chồn hoang”
Nếu nói người Mỹ chủ quan về SAM của Việt Nam thì không hoàn toàn chính xác. Ngay thời điểm B52 ném những quả bom đầu tiên xuống đèo Mụ Giạ, báo Mỹ cũng đã bày tỏ những lo ngại về hệ thống lưới lửa phòng không của Bắc Việt: “Tên lửa phòng không do Liên Xô sản xuất - vốn được thiết kế để tiêu diệt các máy bay ném bom chậm như B52 - được đánh giá là mối đe dọa nghiêm trọng hơn đối với loại máy bay này, vì B52 bay chậm hơn tốc độ âm thanh và khó né tránh hơn các máy bay tiêm kích” (*).
Tháng 8/1965, phía Mỹ đã nhanh chóng triển khai chiến dịch Iron Hand (Bàn tay sắt) cùng sự ra quân của biệt đội máy bay Wild Weasel (Chồn hoang), với mục tiêu truy tìm và tiêu diệt các trận địa SAM. Ban đầu, họ sử dụng máy bay F100F lắp thiết bị dò tìm và cảnh báo radar (RHAW), sau đó chuyển sang F105F, mạnh mẽ và nhanh hơn, đặc biệt là được trang bị tên lửa Shrike có khả năng truy tìm theo tín hiệu radar của SAM. Đến cuối năm 1967, F105F được nâng cấp lên chuẩn F105G với thiết bị điện tử tối tân hơn và sử dụng tên lửa chống bức xạ AGM-78 Standard, tầm xa gần gấp bốn lần và đầu nổ lớn hơn Shrike cũ. Sau này, F4C cũng được phát triển thành biến thể Wild Weasel (**).
Những con “Chồn hoang” tự dùng mình làm mồi nhử, bay trước đội hình tấn công vài phút để mở đường qua hệ thống phòng không của ta. Nếu radar của ta bật lên hoặc tên lửa khai hỏa, “Chồn hoang” sẽ phản công. Thiếu tá Leo K. Thorsness - chỉ huy đội Chồn hoang tại căn cứ Takhli (Thái Lan) - từng cho biết: “Về cơ bản, chúng tôi bay cao vừa đủ để bị bắn và thấp vừa đủ để quay lại tấn công”. Phi công này là người đưa ra kỹ thuật “Shrike break” bằng cách bay lên độ cao 35.000 feet, tăng tốc, kéo mũi lên 45 độ để tấn công SAM từ khoảng cách 35 dặm (khoảng 56 km). Các phi công “Chồn hoang” đã học cách nhận biết tiếng lách cách đặc trưng trong tai nghe khi bị radar Fan Song của SAM soi. Họ gọi đó là rattlesnake (tiếng lục lạc của rắn đuôi chuông). Để đối phó với việc ta phóng đồng thời nhiều tên lửa, phi công Mỹ đã áp dụng chiến thuật Dr. Pepper né tên lửa bay tới từ nhiều hướng cùng lúc. Đại úy Don Carson, một phi công từ căn cứ Korat (Thái Lan) giải thích: “Đôi khi chỉ cần hạ độ cao là đủ để radar SAM mất dấu, hoặc khiến tên lửa bắn hụt. Nếu không, ít nhất bạn có tốc độ lớn để bẻ lái vào giây cuối và hy vọng nó trượt mục tiêu” (***).
Tuy nhiên, lực lượng phòng không Việt Nam đã liên tục ứng phó và đáp trả một cách tài tình.
Các trận địa SAM của ta chỉ mất sáu giờ để tháo dỡ và tái triển khai ở vị trí khác. Tên lửa SAM không hiệu quả ở độ cao dưới 3.000 feet, do đó Việt Nam đã bổ sung pháo phòng không ở tầng thấp. Bản thân các phi đội “Chồn hoang” cũng hứng chịu tổn thất nặng nề. Tháng 7/1966, toàn bộ bảy chiếc F105F của căn cứ Takhli đã bị bắn rơi trong vòng sáu tuần (****).
Dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia Liên Xô, khí tài tên lửa Việt Nam đã được nâng cấp đáng kể. Từ năm 1965 đến cuối năm 1972, chuyên gia quân sự Liên Xô đã cùng các cán bộ Việt Nam tiến hành bốn giai đoạn hiệu chỉnh lớn tên lửa SAM-2, với 40 nội dung cải tiến kỹ thuật. Từ tháng 11/1971 tới tháng 4/1972, chúng ta cải tiến 53 bộ điều khiển tên lửa, 7 xe khí tài tên lửa, 296 bệ phóng, 333 đạn tên lửa (Số liệu của Cục Kỹ thuật phòng không).
Để tránh bị Shrike tấn công, các đơn vị tên lửa của Việt Nam đã áp dụng phương pháp phát sóng ngắn hoặc ngắt quãng để địch không kịp bắt sóng và phóng Shrike. AHLLVTND, Đại tá Đinh Thế Văn, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 77, Trung đoàn 257 nói rằng: “Đó là cách mình biến cái mạnh của nó thành cái yếu”. Chiến thuật này đã được Tiểu đoàn 77 áp dụng tháng 7/1972, họ đã lừa được sáu quả Shrike. Ông Văn nói, để thao tác chính xác vào thời điểm đó, kíp tên lửa phải “hết sức bình tĩnh, dũng cảm”.
Trong Chiến dịch Phòng không tháng 12/1972, địch sử dụng tác chiến điện tử quy mô lớn, cường độ mạnh kết hợp với phóng tên lửa tự dẫn từ xa nhằm vô hiệu hóa và phá hủy hệ thống radar, tên lửa của ta, tập trung đánh phá có tính hủy diệt và khống chế các sân bay để triệt tiêu khả năng cất cánh của không quân ta. Nhưng bất chấp những màn hình radar trắng xóa, tên lửa của ta vẫn khiến B52 câm lặng.
“Chúng ta kết hợp quan sát mắt với radar, áp dụng triết lý lấy thô sơ để đối phó với hiện đại”, theo Đại tá Trần Liên, Nguyên Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Binh chủng radar.
Tùy thuộc vào diện tích mục tiêu đánh phá, B52 có thể bay theo đội hình chữ A hoặc chữ V. Ở cự ly xa (trên 150 km), lúc đầu, trên màn hình hiện sóng có một đến hai dải nhiễu chính rộng, biến đổi liên tục (*****). Khi B52 vào gần hơn, để xác định mục tiêu, chúng ta tìm ra cách dùng radar K860 của pháo cao xạ, ở dải sóng 3 cm ít bị đối phương chú ý hơn so với dải 10 cm. Kỹ sư La Văn Sàng cho hay, K860 có thể phát hiện B52 và dẫn tín hiệu qua hệ thống tên lửa khi B52 vào cự ly 70-80 km. Lúc đó, Hà Nội có hai Tiểu đoàn trang bị K860 là Tiểu đoàn 79 và Tiểu đoàn 57. AHLLVTND, Đại tá Nguyễn Đình Kiên, nguyên sĩ quan điều khiển Tiểu đoàn 57 nói, trong thực tế, K860 có thể phát hiện máy bay ở khoảng cách 50-60 km.
Để khắc phục nhiễu rãnh đạn, chúng ta để đạn nổ chậm hơn. AHLLVTND, Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt, khi đó là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 57 kể lại rằng, tiểu đoàn của ông đã để cho tên lửa đi qua đám nhiễu tiêu cực cách máy bay khoảng 3-4 km thì mới mở ngòi nổ. Đây là một sự thay đổi then chốt, giúp tăng hiệu quả tiêu diệt mục tiêu và khắc phục tình trạng đạn nổ ngoài.
Sách “Cách đánh B52 của bộ đội tên lửa” (Sách đỏ B52) được gửi xuống các đơn vị vào tháng 11/1972, chứa đựng những quy tắc xạ kích quan trọng để xác định và tiêu diệt B52. AHLLVTND, Đại tá Nguyễn Đình Kiên chia sẻ: “Sách đỏ là cơ sở cho các đơn vị tên lửa. Nhờ có tài liệu đó cùng các đợt tập huấn, chúng tôi mới hình dung ra được cách đánh B52”.
Đại tá Nguyễn Xuân Minh, khi đó là trợ lý Quân chủng, là người tham gia biên soạn sách. Trước đó, ông từng là sĩ quan điều khiển Tiểu đoàn 62, Trung đoàn 236. Suốt thời gian Chiến dịch Phòng không tháng 12/1972 , ông Minh được cử xuống các tiểu đoàn để vận dụng cách đánh B52 theo sách hướng dẫn. Trong đêm 20/12/1972, ông Minh tới Tiểu đoàn 93 tại trận địa Phú Thụy, theo dõi và hướng dẫn tại chỗ kíp trắc thủ. Hai quả đầu tiên bắn theo phương pháp 3 điểm không thành công. Tới quả thứ ba, bắt được tín hiệu B52, bộ đội bắn phương pháp vượt nửa góc, chiếc B52 rơi tại Yên Thường.
Mở mắt ra mà đánh
Ban đầu, các đơn vị Việt Nam áp dụng phương pháp bắn ba điểm (radar điều khiển, tên lửa và máy bay nằm trên một đường thẳng), nhắm vào giữa dải nhiễu. Tuy nhiên, do địch thay đổi chiến thuật, cách đánh này dần kém hiệu quả. Để khắc phục, bộ đội tên lửa đã phát triển phương pháp ba điểm có chỉ chuẩn, kết hợp quan sát quang học bằng kính PA00 đặt trên nóc anten để hướng dẫn cho các trắc thủ bên dưới.
Trong Chiến dịch Phòng không tháng 12/1972, Tiểu đoàn 77 của ông Đinh Thế Văn đóng tại trận địa Chèm, bảo vệ hướng tây và tây bắc Hà Nội, nơi B52 được dự đoán sẽ đến từ các căn cứ ở Thái Lan và Guam. Ngay trong đêm 18/12/1972, Tiểu đoàn đã đánh bốn trận và hạ một chiếc B52. Tới ngày 19/12/1972, Tiểu đoàn lần đầu tiên dùng phương pháp vượt nửa góc bắn rơi một chiếc B52 nữa. Chiến công làm nức lòng cả Hà Nội. Dải nhiễu dày đặc của B52 khiến bộ đội ta có lúc bị ví như đang mò đường, không thể bắt mục tiêu trên màn hình radar. Cú hạ B52 lần này cho thấy chúng ta hoàn toàn có thể nhìn thấy B52 trong sóng nhiễu. Chính ủy Sư đoàn 361 khi đó là đồng chí Trần Văn Giang, đã cười vang: “Thằng Văn nhìn thấy máy bay rồi, các anh mạnh dạn mở mắt ra mà đánh!”.
Trong khi đó, Tiểu đoàn 57 của ông Nguyễn Văn Phiệt và ông Nguyễn Đình Kiên cũng phải đối mặt với nhiều thử thách. Đêm 18/12/1972, Tiểu đoàn 57 đã đánh 5 trận, phóng 11 quả đạn theo phương án cũ là diệt mục tiêu ở giới hạn xa vùng sát thương. Tuy nhiên, do cự ly xa và kinh nghiệm ban đầu còn hạn chế, đêm đó không có chiếc B52 nào rơi tại chỗ. Ông Kiên thừa nhận: “Bắn không rơi thì gánh nặng tâm lý của kíp trắc thủ nặng nề lắm”. Rạng sáng ngày 21/2, đơn vị chỉ còn bốn quả đạn mà địch vẫn tấn công liên tục. Lúc này, ông Nguyễn Văn Phiệt đã đề xuất thay đổi phương án: chờ B52 vào gần hơn, khoảng 22-24 km. Ở cự ly này, dải nhiễu dày đặc của B52 bắt đầu tách ra, giúp các trắc thủ có thể xác định mục tiêu thật. Với chỉ hai quả đạn còn lại trên bệ phóng, kíp trắc thủ do ông Kiên điều khiển đã bắn rơi tại chỗ chiếc B52 đầu tiên của Tiểu đoàn tại Sóc Sơn. Ông Kiên vỡ òa trong niềm vui: “Ngày đó sướng lắm! Mình thì còn nhìn màn hình, nhưng mấy ông quang học (trắc thủ quan sát) hét ầm lên cháy rồi. Cái nặng nề mấy hôm trước biến mất”.
(Còn nữa)
(*) (**) Báo New York Times ngày 12/4/1966.
(***)(****) Take It Down! The Wild Weasels in Vietnam - Tạp chí Không lực Hoa Kỳ, tác giả John T. Correll, 2010.
(*****) Cách đánh B52 của bộ đội tên lửa (Sách đỏ B52), Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân, Bộ Tham mưu, 1972.