Nghe anh vừa nhắc tới chuyến đi huấn luyện từ Cù Lao Chàm tới quần đảo Trường Sa, vừa nhắc tới gia đình, lòng tôi lại nao nao, có sự đồng cảm giữa những người lính.
1. Trước khi ra Trường Sa, chúng tôi có hơn hai tuần ở quân cảng Cam Ranh để chờ có chuyến tàu ra đảo. Tại đó, tôi gặp anh Nhuận. Anh cho tôi xem một chồng thư của đứa con gái học Trường đại học Sư phạm I Hà Nội. Thời ấy, liên lạc đều phải dựa vào những lá thư. Một lá thư viết: “Nhà mình nước ngập đến tận sân. Nhà bác Viễn ngập đến tận giát giường. Mẹ đi làm thì ngập đến ngực, có người đến cổ, cho nên đội túi mà đi vào nhà máy, thay quần áo mà làm. Hai ngày sau hết ngập, nước để lại một lớp phù sa kinh khủng.
Hôm nọ có cơn mưa rất to, đúng lúc mẹ làm đêm và chuẩn bị đi ngủ thì chuông réo ầm lên. Mẹ mắng rầm lên và bắt rút cả cụm điện ra, thế là nhà có điện mà tối như hũ nút. Thỉnh thoảng con lại thử cắm vào xem hết kêu chưa, nó lại kêu có phần to hơn. Mãi sau con ra ngoài, cầm cái phích cắm chuông vẩy hết nước, lau bông thật sạch chuông mới không kêu nữa”.
Những lá thư đều kể chuyện nhà như thế. Đằng sau mỗi người lính là hậu phương, là mối lo toan không dứt nhưng cũng là nguồn động viên to lớn khiến họ vững vàng trên mặt trận. Anh Nhuận nói với tôi: “Cậu cứ đến sống Trường Sa thì biết, lính ở đấy giống như tớ, vất vả lắm nhưng cũng nhớ nhà lắm. Tâm trạng lúc nào cũng hướng tới đất liền. Nhưng nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua”.
Mang theo lời nhắn nhủ ấy của anh, tôi lên đường. Sau vài ngày trên biển, trước mặt tôi là vùng biển mênh mông của những đảo san hô ngầm. Những đảo lớn và rất lớn nằm nhờ nhờ trên mặt sóng. Chuyến đi của chúng tôi qua bảy - tám đảo lớn nhỏ, một hành trình rất dài.
Nơi đây chỉ có hai mùa: mùa khô từ tháng 2 tới tháng 8; mùa mưa bão từ tháng 8 tới tháng 1 năm sau. Quần đảo nằm ngay trên đường di chuyển của các cơn bão vào Việt Nam nên chuyến đi gặp sóng cấp 7, cấp 8 cũng là chuyện bình thường.
Mỗi hòn đảo đều có đặc thù riêng. Như đảo Song Tử Tây, chung quanh có diềm san hô bao bọc lấy đảo. Phía trong bãi san hô thì yên bình, chẳng khác mấy công viên nước hiện đại bây giờ. Nhưng ngoài diềm san hô thì độ sâu hun hút, cắm xuống đáy biển. Chừng đây là một núi lửa đã tắt, trải qua cả triệu năm, giờ thành bãi san hô cho các đàn chim bay đến.
Đảo Nam Yết có những bãi đá san hô nhô ra khỏi mặt nước, hình dạng tùy theo doi cát. Nhiều đảo cũng có cây, nhưng riêng Sinh Tồn trong ký ức của tôi toàn cát trắng. Hay như đảo Thuyền Chài, lúc tôi lên chỉ có mấy cái nhà cao chân đơn sơ.
Thời điểm chúng tôi đến, vích (rùa biển) còn khá nhiều, có con nặng hàng trăm ký. Về mùa xuân, đàn rùa về sống trong các vườn san hô quanh đảo, ban đêm chúng bò lên bờ cát đẻ trứng.
Thời đó, trên đảo ít được tiếp tế thường xuyên nhưng đồ ăn vẫn khá đa dạng. Ngoài đồ hộp, các đảo còn tổ chức trồng rau và chăn nuôi khi có thể. Năm đầu tiên tôi đến, đảo Trường Sa nuôi được 70 con lợn, thu được hai vạn quả trứng chim.
Nguồn hàng chở đến các đảo do các tàu mang đến. Không phải lúc nào cũng tuyệt đối an toàn. Tàu 501 tải trọng 4.000 tấn, vậy mà ra đảo Sơn Ca có lúc bị đứt neo. Tàu 604 bị con cá lớn lao vào làm vỡ mạn tàu. Tàu 504 chở hàng bị mắc cạn. Đây mới chỉ là một trong nhiều chuyện gian nan.
Nước ngọt ở đảo là một vấn đề khá nan giải. Lên đảo, nhìn cánh lính chuyển nước ngọt từ tàu vào đảo ở Trường Sa và Nam Yết thấy khá vất vả. Anh em phải bơm nước ngọt vào xuồng cao su, sau đó đưa xuồng vượt qua những cơn sóng dữ vào bờ cách đó khoảng chừng một ki-lô-mét. Thế mới thấy sự bền gan của người ở đảo.
Chìa khóa bể nước được giao cho chỉ huy đảo, đó là tài sản quý hơn vàng. Nước ngọt dùng để nấu ăn là chính. Ở Nam Yết, mỗi khẩu đội có năm sáu cái phi để hứng nước mưa. Bữa nào mưa nhiều, anh em nộp lên Ban chỉ huy để dự trữ. Nhưng mùa khô, thiếu vẫn hoàn thiếu. Có đảo quy định hết mưa là các két nước khóa chặt. Khi trên đảo hết nước mới phát theo tiêu chuẩn mỗi người một ca nước.
Những cơn mưa ở biển như những món quà thiên nhiên trao tặng cho người lính. Lính tắm bằng nước biển, sau đó sử dụng nước từ giếng lọc nước biển.
Thiếu nước nên quần áo của lính cũng thiếu. Bởi nước mặn làm hỏng hết quần áo. Có người thiếu cả quần đùi lẫn khăn mặt. Nguyên do cũng đơn giản, như lúc bơi theo xuồng lên đảo, quần áo có khi bị sóng đánh rách hết. Khi chuyển hàng vào bờ, có lúc xuồng cao su gần đến bờ thì bị sóng lật úp.
Anh Phán, một cán bộ đảo Nam Yết bị một cú sốc như vậy khi vào đảo Song Tử Tây. Lúc đó, anh chỉ kịp ôm theo ba-lô tài liệu, trôi theo sóng. May mắn thay, một chiếc xuồng cao su do chiến sĩ Văn đã đuổi kịp và kéo anh vào bờ.

2. Lúc tôi lên tới đảo Trường Sa, đảo vẫn đang phải chỉnh trang, tôn tạo. Việc tưởng nhỏ mà cũng bao nhiêu nhọc nhằn. Tôi vẫn nhớ đồng chí Cao Ánh Đăng, Lữ trưởng Lữ đoàn 146 nói với tôi: “Anh em lính vác đá có khi không có đủ bao tay, có lúc phải quấn vải vào tay mà bốc san hô”.
Vết thương do đá san hô cứa vào tay chân, lại thêm muối mặn, thường lâu lành, ai nấy đều nhăn mặt vì xót. Nhưng mọi người đều cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Một chiến sĩ của E83 - đơn vị phối thuộc của Quân chủng Hải quân khi ấy tâm sự: “Vác đá ở đây không dễ như ở trong đất liền. Tôn tạo xong chỉ sau vài năm đã phải làm lại, càng ngày càng phải cải tiến hơn”.
Ở đảo Sinh Tồn năm đó, vừa làm xong một con đường để di chuyển thì một trận bão kinh hoàng đã ném những con sóng chùm qua đảo. Cát lấp kín con đường vừa đắp. Những người lính mất ba ngày để vét cát. Nhưng cứ sáng vét cát thì buổi tối cát lại lấp qua. Vậy nhưng họ vẫn bền bỉ như vậy, ngày qua ngày, tới lúc trời yên biển lặng. Từ bàn tay người lính, đảo mỗi lúc một khang trang hơn.
Trường Sa những năm tháng đất nước vừa trải qua cuộc chiến còn nhiều khó khăn. Đất liền vất vả, mà người ngoài đảo cũng vất vả. Những người lính phải dựng lều bạt ở tạm. Tới mỗi hòn đảo, điều tôi nhớ là từ những vọng gác cao vút, lá cờ Tổ quốc tung bay lồng lộng. Từ những vọng gác đơn sơ ấy, chúng ta đã bền bỉ giữ gìn được một vùng biển luôn sôi động, đầy sóng gió.
Chính từ những kinh nghiệm ban đầu, sau này Trường Sa càng lớn mạnh hơn. Cách dùng nước, chăm bón cây cối, xây dựng công trình, chăm sóc y tế, huấn luyện quân sự ngày nay đã khác rất nhiều.
Những người lính Lữ đoàn 146 tôi gặp ngày ấy phần lớn là lính trận. Có người đã trải qua chín mười năm ở vùng rừng núi, ra Trường Sa còn cầm theo cánh võng của Trường Sơn. Tinh thần cảnh giác cũng cao. Họ có kinh nghiệm để nhớ từng mô đá, từng chướng ngại, tăng thêm một mô đá là dường như có chuyện. Gác ban đêm họ bảo nhau xem trăng sao. Họ dạy nhau phát hiện ra có vật nghi ngờ thì nằm xuống mép nước để quan sát thế nào.
Lúc ấy không chỉ là canh gác đảo, mà còn là sẵn sàng để không bị bất ngờ trong mọi tình huống. Biết bao những sự kiện đã xảy ra trên biển. Có những chuyến đối phương giả dạng dân đánh cá xâm nhập đảo. Có những tai nạn xảy ra trên biển. Có những đoàn tàu tránh bão đậu ở Trường Sa. Nhưng những sự cố ấy chỉ làm giàu thêm kinh nghiệm của những người bám biển.
Những người lính đảo khi đó đều kể, buổi chiều khi hoàng hôn buông xuống là lúc họ nhớ nhà nhất. Ngày ấy không có mạng thông tin như bây giờ. Khi có tàu ra là toàn đảo đứng chờ ở gần mép nước, lúc đưa tàu đi cũng vậy. Chúng tôi lên đảo là đã thấy một hàng ngang lính đứng chờ sẵn như chờ người thân rồi.
Thư nhà cũng khó khăn. Có lá thư phải sáu, bảy tháng sau mới tới tay người nhận. Thư của một người mà cả tiểu đội đều thuộc. Chứng kiến những chuyện ấy ở Trường Sa, tôi lại nhớ tới tâm trạng của anh Đào Văn Nhuận khi nói về gia đình mình. Ở nơi đảo xa, nỗi nhớ đất liền càng tăng lên gấp bội. Có một đoàn văn công ra là đủ chuyện kể cả năm. Mỗi người nhớ lại một đoạn rồi chắp nối thành chuyện, tua đi tua lại trong trí nhớ, từng câu nói của mỗi diễn viên, nội dung của từng hoạt cảnh.
Trường Sa bây giờ nhộn nhịp, ấm áp trong mối quan tâm của đất liền. Mỗi năm đều có những chuyến tàu đi, những chuyến tàu đến mang theo bao nhiêu tình cảm của quân và dân cả nước.
Quần đảo Trường Sa trở thành tấm lá chắn trên Biển Đông, che chở cho cả nghìn cây số đường biển, cả một vùng kinh tế biển giàu có tài nguyên và triển vọng ở ngay gần con đường thông thương quốc tế. Mỗi hòn đảo đều như một chiến hạm, dù sóng to, gió lớn đến đâu cũng vượt qua và vững vàng trên biển.
Có được tấm lá chắn trên biển hôm nay là cả một quá trình gian lao, đầy thử thách. Nó được xây dựng từng ngày. Có một sự kết nối chặt chẽ giữa các đảo và đất liền, một sự bảo vệ vòng ngoài để bảo đảm cho sự bình yên trên mặt sóng.
Nhà báo Vũ Đức Tân, sinh năm 1954, nguyên Trưởng ban Lý luận phê bình của Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam. Ông tốt nghiệp khoa Báo chí, ĐH Tổng hợp Lomonosov (MGU), Liên Xô. Tháng 5/1981, ông nhận nhiệm vụ công tác tại quần đảo Trường Sa với cương vị là phóng viên Phòng Tòa soạn báo Quân đội Nhân dân. Năm 1983, ông chuyển sang Báo ảnh Việt Nam (TTXVN).