Sau cú trượt dài “hậu Vinashin”, ngành đóng tàu tưởng chừng lui vào dĩ vãng. Thế nhưng giữa muôn vàn khó khăn, những người thợ vẫn bền bỉ bám trụ tại các nhà máy ở Quảng Ninh, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh…, góp phần đưa Việt Nam lên vị trí thứ 7 thế giới về năng lực đóng tàu. Với dự báo thị trường có thể đạt 680 triệu USD vào năm 2032, đâu là con đường để Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy (SBIC), đơn vị vừa thực hiện thủ tục phá sản, vừa mang trọng trách hồi sinh, dẫn dắt ngành vươn xa trên bản đồ hàng hải thế giới?
Kỳ 1: Giữ lửa nghề giữa trùng khơi
Khi ngành đóng tàu ở thời hoàng kim, Vinashin từng quy tụ tới 70.000 lao động, các nhà máy rực lửa sản xuất, đơn hàng nối tiếp xuất khẩu ra khắp năm châu. Nhưng rồi cơn lốc tái cơ cấu ập đến, cuốn phăng những hào quang năm cũ. Trong bối cảnh đó, những người thợ giỏi nhất, yêu nghề nhất vẫn âm thầm ở lại, giữ hy vọng hồi sinh ngành đóng tàu.
Đằng sau những kỳ tích trên biển
Sáng sớm tại Công ty TNHH MTV Đóng tàu Phà Rừng (Hải Phòng), tiếng máy mài, tiếng sắt va đập hòa quyện thành bản hòa tấu công nghiệp rộn rã. Chúng tôi theo chân ông Nguyễn Văn Trình, Tổ trưởng Sắt hàn 2, vào xưởng sản xuất, nơi ông từng gắn bó suốt từ năm 1998 cho đến nay. Từ mái xưởng ấy, cả gia đình ông lần lượt nối nghiệp. Vợ ông vận hành cần cẩu, con trai làm kỹ sư thiết kế, con dâu thực tập tại phòng kỹ thuật, trở thành một “gia đình đóng tàu” đúng nghĩa. Ngành đóng tàu Việt Nam từng khởi nguồn từ những xưởng nhỏ ven sông, ven biển, với giàn đà thô sơ và đôi bàn tay chai sạn của những người thợ như vậy.
Bước ngoặt đến sau năm 1996, khi Vinashin (nay là SBIC) ra đời, đưa ngành đóng tàu vào thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ. Từ năm 1996 đến 2008, hơn 400 con tàu được hạ thủy, trong đó nhiều chiếc xuất khẩu sang châu Âu và Trung Đông. Tạp chí Financial Times gọi Việt Nam là “ngôi sao trỗi dậy ở phương Đông trong đóng tàu cỡ trung”. Thế nhưng, giai đoạn tái cơ cấu 2009-2014, như cơn sóng ngầm đánh vào ngành, ông Nguyễn Văn Trình kể: “Ở giai đoạn cực thịnh, xưởng làm ba ca liên tục, tháng chỉ nghỉ vài ngày Tết. Mỗi lần hạ thủy là một ngày hội, người dân khắp vùng kéo về chứng kiến, tự hào lắm. Vậy nhưng tới năm 2010, xưởng gần như ngưng hoạt động, sắt thép vứt la liệt. Công nhân giỏi lần lượt bỏ nghề. Tôi phải bán xe máy, lương chỉ năm ngày công/tháng. Nhưng tôi không nghỉ vì muốn giữ nghề”.
Giữa khó khăn, những người thợ kiên định không rời xưởng. Chị Lương Thị Hằng, công nhân hàn bậc cao tại Phà Rừng, chia sẻ: “Ba tháng không đơn hàng, lương chậm, ai cũng nản. Tôi cân nhắc nhưng nghĩ đến những năm tháng đã gắn bó với nghề nên quyết tâm ở lại. Từ thợ hàn, tôi học thêm điều khiển máy cắt CNC tự động. Vất vả nhưng không buông”. Nhờ những nhóm thợ như vậy, Phà Rừng từng bước vực dậy…
Câu chuyện của anh Phạm Thành Ngọc Hoàng, công nhân Công ty TNHH MTV Đóng tàu Bạch Đằng, là một lát cắt bình dị khác về nghị lực bám nghề của những người thợ đóng tàu. Khởi đầu từ vị trí công nhân phổ thông, anh vừa học, vừa làm để lấy bằng kỹ sư, rồi từng bước phấn đấu trở thành tổ trưởng, Phó Chủ tịch công đoàn phân xưởng. Giai đoạn 2008-2015, khi công ty rơi vào giai đoạn khó khăn nhất, anh vẫn kiên trì gắn bó, học hỏi, tích lũy từng chút kinh nghiệm. Sự dấn thân ấy đã mở ra bước ngoặt khi anh được công ty cử ra nước ngoài tu nghiệp, tiếp cận công nghệ hiện đại, rồi trở về làm cầu nối chuyển giao kỹ thuật cho đội ngũ thợ tại xưởng. “Chính những lớp công nhân đi trước, kiên trì bám trụ trong mọi hoàn cảnh đã truyền cho tôi một tinh thần đặc biệt để bền lòng gắn bó với nghề cho đến hôm nay”, anh Hoàng chia sẻ.
Trong guồng quay hối hả của Công ty Đóng tàu Hạ Long, kỹ sư Phạm Thu Hằng (sinh năm 1982) đã miệt mài gắn bó 21 năm với phân xưởng điện tàu. Đảm nhận nhiệm vụ hoàn thiện hệ thống điện - “mạch máu” của mỗi con tàu, chị Hằng không chỉ làm việc trong điều kiện khắc nghiệt, khi thì trèo lên đỉnh cột cao gần 200 mét, lúc lại chui sâu vào lòng tàu chật hẹp, mà còn không ngừng cập nhật kiến thức, làm chủ công nghệ trên các dòng tàu hiện đại. “Sinh ra trong một gia đình nhiều thế hệ gắn bó với ngành đóng tàu nặng nhọc, lớn lên bên xưởng tàu, rồi sau này gắn bó với nghề… tất cả những điều đó là động lực để tôi vượt qua khó khăn. Với tôi, hạnh phúc là được cùng đồng nghiệp kiên cường vượt khó, nhìn những con tàu mình góp sức vươn ra biển lớn", chị Thu Hằng tâm niệm.

Tài sản vô giá
Năm 2009, Vinashin đã từng có tới 70.000 lao động, gồm cả lao động thời vụ. Tuy nhiên, cơn lốc tái cơ cấu Vinashin như cơn bão quét ngang, nhiều doanh nghiệp bị giải thể, sáp nhập. Nhiều nhà máy từ hơn 10.000 công nhân giờ chỉ còn vài trăm, thậm chí phải đóng cửa toàn bộ phân xưởng. Dù vậy, trong cuộc sàng lọc khốc liệt, những người giỏi nhất, tâm huyết nhất không rời đi. Họ ở lại, trở thành cột trụ giữ cho ngành không gục ngã, hun đúc hơi ấm từ khối thép lạnh lẽo cho sự hồi sinh.
Tại Nhà máy đóng tàu Phà Rừng, nhân sự giảm từ 2.755 năm 2011 xuống còn 650 cán bộ, công nhân giỏi, gửi đi Nhật Bản, Hàn Quốc học công nghệ và tác phong công nghiệp. Chủ nhiệm công trình, kỹ sư Vũ Mạnh Hà, xuất thân từ thợ lắp ráp trình độ sơ cấp, trải qua nhiều khóa học trong và ngoài nước, nên thấu hiểu giá trị người thợ: “Giữ được người thợ là giữ được linh hồn nhà máy. Làm thợ không chỉ biết nghề, mà còn phải sáng tạo, học hỏi và tự cứu mình giữa biến động toàn cầu”, ông nhấn mạnh.
Ở các Nhà máy như Sông Cấm, Nam Triệu, Bạch Đằng, Hạ Long, hình ảnh thợ hàn đổ mồ hôi đã được thay thế dần bằng công nhân ngồi trong ca-bin điều hòa điều khiển robot cắt thép plasma, CNC với độ chính xác gần như tuyệt đối. Đây là minh chứng cho sự chuyển mình thần kỳ của công nhân Việt Nam. Tuy nhiên, sự nỗ lực tự thân của họ chưa đủ. Muốn những con tàu “vươn ra biển lớn” cần tư duy lãnh đạo nhìn xa trông rộng, dám đầu tư dài hạn cho con người. Ông Nguyễn Bá Sơn, Phó Giám đốc Công ty TNHH MTV Đóng tàu Bạch Đằng chia sẻ: “Công nhân là trọng tâm tái cơ cấu. Muốn tinh gọn bộ máy hiệu quả phải nâng cao chất lượng lao động, không chỉ tay nghề mà còn trình độ công nghệ và ngoại ngữ”. Bạch Đằng là một trong số ít đơn vị mạnh dạn đưa công nhân ra nước ngoài vừa làm vừa học để đổi mới tư duy, bắt kịp chuẩn quốc tế. Nhiều người trở về trở thành “hạt nhân” chuyển giao công nghệ tại nhà máy.
Chia sẻ về quá trình tái cơ cấu và tinh gọn bộ máy, ông Đàm Quang Trung, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐQT Công ty Đóng tàu Sông Cấm nhấn mạnh: “Nguyên tắc số một là phải giữ được người giỏi để nâng hiệu quả công việc”. Theo ông Trung, dù tinh giản nhân sự, Sông Cấm vẫn nâng cao năng suất và chất lượng nhờ ba trụ cột: Giữ vững đội ngũ thợ lành nghề và kỹ sư giỏi làm nòng cốt kỹ thuật; đẩy mạnh tự động hóa ở các khâu chuẩn hóa; phát triển mạng lưới doanh nghiệp vệ tinh, chỉ giữ lại những công đoạn then chốt, yêu cầu kỹ thuật cao. Một nét đặc sắc trong văn hóa doanh nghiệp là mô hình “đào tạo ngược”. Các kỹ sư kỳ cựu trực tiếp hướng dẫn thợ trẻ trong các “tổ kỹ nghệ mini”- đơn vị chịu trách nhiệm trọn gói về chất lượng từng sản phẩm. Thông qua các buổi họp tổ định kỳ, kinh nghiệm nghề và tinh thần trách nhiệm được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. “Chúng tôi không thiếu đơn hàng, mà thiếu người có thể làm việc được ngay. Đào tạo thợ công nghệ cao không dễ. Nhà nước cần sớm có chính sách đặc thù như mô hình trường nghề gắn với doanh nghiệp, hỗ trợ học phí, cam kết việc làm và ưu đãi thuế cho các đơn vị tiếp nhận học viên”, ông Trung kiến nghị.
Bài học từ Sông Cấm, Nam Triệu, Phà Rừng, Bạch Đằng, Hạ Long… cho thấy không nhất thiết duy trì bộ máy cồng kềnh, ngành đóng tàu vẫn có thể phục hồi nhờ tư duy tinh gọn, hiện đại, biết liên kết hiệu quả và đặt con người làm trung tâm trong chiến lược phát triển. Tuy nhiên, một thách thức nghiêm trọng đang hiện hữu khi độ tuổi trung bình của thợ tàu đã ngoài 40, lực lượng trẻ không mặn mà với nghề vì đặc thù nặng nhọc, thu nhập thiếu ổn định. Các trường đào tạo nghề đóng tàu ngày càng vắng bóng học viên. Nếu không có giải pháp đồng bộ ở tầm chính sách quốc gia, ngành đóng tàu Việt Nam sẽ khó duy trì được nội lực để bứt phá trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt.
“Lực lượng công nhân là tài sản vô giá của SBIC. Họ gắn bó với nhà máy bằng cả máu thịt. Nhiều gia đình có ba thế hệ nối tiếp nhau giữ nghề, dù thu nhập còn khiêm tốn. Tuy nhiên, để phát triển bền vững, không thể chỉ dựa vào truyền thống. Ngành đóng tàu cần những cơ chế đột phá để giữ chân nhân lực chất lượng cao, đồng thời không ngừng nâng chuẩn kỹ năng nghề nghiệp. Chỉ khi đó, SBIC và các doanh nghiệp trong ngành mới đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế”, TS Phạm Hoài Chung, Chủ tịch Hội đồng thành viên SBIC chia sẻ.
(Còn nữa)