Tăng cường nội lực để thúc đẩy tăng trưởng

Nếu không có những đột phá chính sách, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam trong những năm sắp tới chỉ ở mức vừa phải và khó có sự đột phá để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Thúc đẩy kinh tế thương mại là một trong những trụ cột để Việt Nam hướng tới tăng trưởng cao.
Thúc đẩy kinh tế thương mại là một trong những trụ cột để Việt Nam hướng tới tăng trưởng cao.

Từ cuối những năm 80 thế kỷ trước, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu kinh tế quan trọng, với thu nhập bình quân tăng từ khoảng 80 USD/người năm 1990 lên 4.700 USD vào năm 2024 (theo số liệu của World Bank). Giai đoạn 1990–2024, GDP tăng trưởng trung bình 6,73%/năm.

Tuy nhiên, tốc độ này đang chậm lại qua từng thập niên, do mô hình tăng trưởng dựa vào vốn đã dần tới hạn khi năng suất biên ngày càng giảm. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng giảm dần theo từng thập niên: từ 7,41% (1990-1999) xuống 7,27% (2000-2009), còn 6,30% (2010-2019), và chỉ đạt 5,14% kể từ năm 2020 đến nay.

Những nút thắt khó gỡ

Hiện Việt Nam đang đặt mục tiêu đầy tham vọng: tăng trưởng GDP ít nhất 8% vào năm 2025 và đạt mức hai con số trong các năm tiếp theo, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, với thu nhập bình quân khoảng 26.835 USD/người.

Tuy vậy, bối cảnh kinh tế toàn cầu hiện nay không thuận lợi. Các thách thức về thuế quan, sự gia tăng chủ nghĩa bảo hộ, cùng với những rào cản nội tại như chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, nguồn lực đầu tư thiếu hụt và môi trường vĩ mô chưa thật sự ổn định đang cản trở quá trình chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng dựa vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Trước những thách thức lớn từ cả bên ngoài lẫn bên trong, nếu không có các đột phá chính sách mạnh mẽ, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nhiều khả năng sẽ tiếp tục phụ thuộc vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, với tốc độ chỉ ở mức vừa phải và khó tạo ra bứt phá để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Phân tích về thực trạng của nền kinh tế nước ta, PGS, TS Phạm Thế Anh, Trưởng khoa Kinh tế học, Trường đại học Kinh tế quốc dân, nhận thấy nhiều nét tương đồng với các quốc gia Đông Á trong những giai đoạn trước đây. Hơn ba thập kỷ qua, tăng trưởng kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào đầu tư và xuất khẩu, thể hiện qua tỷ lệ xuất khẩu/GDP tăng mạnh.

Việt Nam đã thu hút lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài phục vụ xuất khẩu và tận dụng lực lượng lao động dồi dào, đồng thời tích cực tham gia và ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Tuy nhiên, Việt Nam chưa thành công như các nước Đông Á do khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu còn hạn chế. Các doanh nghiệp FDI hoạt động độc lập và ít liên kết với doanh nghiệp trong nước, khiến doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu thực hiện các công đoạn gia công giá trị thấp và phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn khác như thu ngân sách có xu hướng mất ổn định, trong khi chi thường xuyên vẫn chiếm tỷ trọng cao, giải ngân đầu tư công chậm chạp và nghĩa vụ trả nợ ngày càng tiệm cận ngưỡng cảnh báo. Chính sách tiền tệ hiện nay cũng còn một số bất cập như tốc độ tăng cung tiền quá cao, lãi suất thực thấp, tín dụng chảy vào bất động sản và tài sản nhiều hơn là vào sản xuất.

Theo PGS, TS Phạm Thế Anh, việc tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực với quy mô lớn đặt ra thách thức không nhỏ cho Việt Nam. Nếu không có chính sách đồng bộ để nâng cao hiệu quả chi tiêu công, thực hiện dịch chuyển hợp lý giữa các khoản chi và khai thác các nguồn thu bền vững thay thế cho những nguồn thu kém ổn định hoặc đang làm suy giảm động lực sản xuất - tiêu dùng, nền kinh tế có thể đối mặt với nguy cơ thâm hụt ngân sách cao, mất ổn định vĩ mô và thậm chí là khủng hoảng.

Từ khát vọng đến yêu cầu hành động

Để tháo gỡ những nút thắt và tạo động lực đột phá cho tăng trưởng, PGS, TS Phạm Thế Anh đã đưa ra nhiều khuyến nghị. Trong đó, ông nhấn mạnh việc thu hẹp đáng kể chi thường xuyên của bộ máy nhà nước. Nâng cao hiệu quả hoạt động, tinh giản biên chế và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi kém hiệu quả sẽ giúp tiết kiệm một lượng vốn lớn, có thể tái phân bổ cho đầu tư phát triển hạ tầng. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tích cực tìm kiếm các nguồn thu bền vững mới để thay thế một phần các nguồn thu truyền thống.

Ông cũng cho rằng, Việt Nam nên áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ nội địa hóa. Biện pháp này có thể tạo động lực lớn hơn cho các doanh nghiệp xuất khẩu tăng cường sử dụng nguyên liệu, linh kiện và dịch vụ sản xuất trong nước, qua đó thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ. Việc này không chỉ giúp nâng cao giá trị gia tăng nội địa trong sản phẩm xuất khẩu mà còn tạo thêm việc làm và tăng năng lực sản xuất cho các doanh nghiệp Việt.

Bằng cách chủ động nguồn cung trong nước, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ giảm thiểu rủi ro từ các chính sách thương mại quốc tế bất lợi, bảo đảm tính ổn định và bền vững cho hoạt động xuất khẩu.

Việc thoái vốn ở các doanh nghiệp nhà nước trong những lĩnh vực không cần thiết hoặc hoạt động không hiệu quả cũng sẽ tạo ra động lực tăng trưởng mới trong dài hạn, thông qua việc tái phân bổ nguồn lực vào các lĩnh vực hiệu quả hơn.

Cùng chung quan điểm, GS, TS Trần Thị Vân Hoa, Phó Hiệu trưởng Trường đại học Kinh tế quốc dân, nhấn mạnh ba trụ cột để Việt Nam hướng tới tăng trưởng cao:

Trụ cột thứ nhất là thực thi triệt để “cuộc cách mạng thể chế”: tiếp tục tinh gọn bộ máy theo hướng hiệu lực, hiệu quả, chuyên nghiệp và hiện đại; cải cách thực chất thủ tục hành chính, cắt giảm tối đa chi phí tuân thủ; đồng thời tăng cường minh bạch, trách nhiệm giải trình và năng lực thực thi công vụ.

Trụ cột thứ hai là thúc đẩy kinh tế thương mại thông qua chiến lược thu hút FDI, tăng cường liên kết nội địa, phát triển kinh tế số và các ngành công nghiệp mới nổi. Việt Nam cần tập trung hoàn thiện hạ tầng số quốc gia hiện đại, an toàn và đồng bộ. Đồng thời, phát triển không gian kinh tế mới thông qua các dự án đường cao tốc, đường vành đai, giao thông liên vùng đa phương thức; xúc tiến đường sắt tốc độ cao, nâng cấp cảng biển và sân bay quốc tế; bảo đảm an ninh năng lượng với cơ cấu cân đối, ưu tiên năng lượng tái tạo và xây dựng lưới điện thông minh. Việt Nam cũng cần kiến tạo hạ tầng số tiên tiến với 5G/6G, trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây, và tập trung nguồn lực phát triển các vùng động lực, hành lang kinh tế, các cực tăng trưởng quốc gia có sức lan tỏa mạnh.

Trụ cột thứ ba, theo GS, TS Trần Thị Vân Hoa, là định hướng lại mục tiêu tăng trưởng. Tăng trưởng GDP cao không nên là đích đến duy nhất, mà chất lượng tăng trưởng mới là yếu tố then chốt, thể hiện qua năng suất lao động, mức độ đổi mới sáng tạo và khả năng tự chủ về công nghệ cũng như chuỗi cung ứng.

“Việt Nam từng có những thành công đáng kể nhờ tận dụng lao động giá rẻ và dòng vốn FDI. Tuy nhiên, mô hình này đang dần bộc lộ giới hạn, nên việc chuyển hướng từ “lượng sang chất”, từ khai thác nhân công giá rẻ sang công nghệ, kỹ năng và đổi mới sáng tạo là yêu cầu cấp bách. Thay vì dàn trải nguồn lực vào các ngành thâm dụng lao động, Việt Nam cần ưu tiên các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như công nghệ, bán dẫn, năng lượng tái tạo và logistics hiện đại”, GS, TS Trần Thị Vân Hoa nhận định.

Để hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm từ các nước Đông Á, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore trong việc hoạch định và thực thi chiến lược phát triển.

Bài học đầu tiên là vai trò định hướng mạnh mẽ của Nhà nước trong việc xác định ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng kế hoạch dài hạn và đưa ra các chính sách hỗ trợ cụ thể về thuế, tín dụng, cũng như cải thiện môi trường kinh doanh. Nhà nước cần đóng vai trò dẫn dắt quá trình công nghiệp hóa, tập trung nguồn lực vào những lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh và tiềm năng xuất khẩu cao.

Bên cạnh đó, các quốc gia Đông Á thành công đều đặc biệt chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng hiện đại (giao thông, năng lượng, viễn thông) và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc học hỏi cách thu hút FDI, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, khuyến khích R&D cũng là yếu tố then chốt giúp nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm

back to top