Những nỗi đau nghẹn ứ
Lầm lũi, nghẹn ứ, không còn nước mắt để chảy, đó là hình ảnh khi tôi lắng nghe chị Đinh Thị Xuân ở xóm Bàn Cờ trải lòng. Khuôn mặt chị càng trở nên nhợt nhạt sau mấy đêm không ngủ vì lo lắng về chuyện gia đình nhà chồng không thông cảm, đẩy chị ra ngoài. “Mắc bệnh và được gia đình nhà chồng hiểu cho thì còn an tâm mà sống. Đằng này tôi bị đuổi đi, vừa phải ra thuê lấy một chỗ để ở tạm”, chị Xuân xòe bàn tay nhăn nheo che mặt.
Câu chuyện của chị xuôi về thời con gái với biết bao ước mơ. Đó là năm 2001, chị từ vùng quê Nam Định vào Bình Dương làm công nhân và gặp người cùng công ty là anh Bùi Văn Dũng, ở thị trấn Hùng Sơn. Họ quyết định về quê hương anh Dũng cưới nhau và làm ăn. Lấy chồng xa, chị Xuân chỉ ước mình có một mái ấm bình dị và hạnh phúc. Nhưng ước nguyện nhỏ nhoi ấy của chị cũng không thực hiện được. Vào thời gian ấy, thanh niên trai tráng từ các thôn bản ở Đại Từ bị cuốn vào vòng xoáy đào vàng ở những vùng núi cao của Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn. “Khi đi trai tráng, khi về bủng beo. Rất nhiều người đã mắc bệnh xã hội, nghiện ngập từ môi trường ấy. Chồng tôi cũng vậy. Vừa nghiện, vừa bệnh. Năm 2004 anh ấy bỏ tôi đi sau khi tôi vừa biết mình nhiễm HIV. Lúc ấy, mọi thứ trong tôi như tan vỡ. Chúng tôi còn chưa kịp có con…”, chị Xuân thổn thức.
Bất giác, chị Xuân nhìn sang chị Ninh Thị Mười, người cùng cảnh ngộ. Chị Mười may mắn hơn bởi đã có ba đứa con, và không đứa nào mắc bệnh. Xuân thốt lên: “Em chỉ ước được một phần của chị Mười. Vậy mà…”.
Cũng từng rất hy vọng vào tình yêu, chị Mười bảo rằng, năm đó dù biết nhà anh Phan Văn Sáu rất nghèo, nhưng vẫn quyết tâm cưới nhau. Bệnh của chồng âm ỉ, lây sang vợ, nhưng phải đến năm 2002 khi sinh đứa con thứ ba chị mới biết mình nhiễm “H”. “Tôi không rõ là mình nhiễm bệnh từ đâu. Cùng chồng đi xét nghiệm thì ngày đó các bác sĩ đều không dám nói thật, chỉ bảo bị viêm gan B. Xét nghiệm đến lần thứ ba mới biết thật bệnh. Lúc ấy, anh em, hàng xóm nhiều người đã ngã bệnh. Toàn nghiện và “H” thôi. Tôi chẳng biết ngày nào thì đến lượt hai vợ chồng mình. Rồi năm 2007, anh Sáu bỏ bốn mẹ con mà đi. Một nách tôi ba con. Hai vợ chồng nuôi con còn khổ, huống hồ một mình… Thật may là, cả ba đứa con của tôi không bị lây nhiễm”, chị Mười hồi tưởng.
Chung hoàn cảnh, nỗi đau như chị Mười, chị Xuân còn hơn 80 chị em khác, cùng với hơn 20 đứa trẻ nhiễm “H” từ hậu quả của “bão AIDS” khủng khiếp. Có chị chưa kịp có con, nay ở một mình làm thuê cuốc mướn. Có chị chồng mất, vừa nuôi con bệnh tật, vừa phải gắng gượng vươn lên làm chỗ dựa cho mẹ già. Chị Ninh Thị Hà, ở xóm 4 thốt lên: “Các ông ấy đi rồi, nhưng nỗi đau cho người ở lại thì chẳng biết bao giờ nguôi. Cũng lấy chồng, sao người ta sướng, còn chị em chúng tôi phải chịu cảnh này!”.
Lau khô nước mắt để thấy mặt trời
Vào năm 2008, những người phụ nữ nhiễm “H” ở Hùng Sơn được Ủy ban Y tế Hà Lan - Việt Nam giúp đỡ, thành lập CLB Hoa Hướng dương để có nơi chốn gặp gỡ những người cùng cảnh ngộ. Khi tham gia CLB, các chị đã được đồng cảm, chia sẻ, cấp thuốc và được tập huấn kỹ năng để phòng chống lây lan sang người thân và cộng đồng. Từ chỗ nhiều chị em ôm nỗi mặc cảm, không dám tiếp xúc với người ngoài, không dám đối mặt với bệnh tật, nhờ những hội viên năng nổ, đã tự tin, lạc quan hơn. Chị Đinh Thị Xuân, Chủ nhiệm CLB kể: “Tôi nói với các chị em, phải nỗ lực vì bản thân và ai có con thì cố gắng làm lụng nuôi con. Chứ cứ ngồi đó kể khổ thì chẳng giải quyết việc gì cả. Vậy là, nhiều chị em nỗ lực. Có người đi buôn bán nhỏ, người chăm cây chè thuê. Dù phải sống chung với bệnh, nhưng sẽ không để trôi đi vô nghĩa”.
Nói thì như vậy, để có được tinh thần lạc quan đâu có dễ. Các thành viên CLB Hoa Hướng dương đã phải vượt lên rất nhiều nỗi mệt mỏi của sự kỳ thị và khó khăn giăng ra trước mắt. Trước đây, có chị xin đi cấy thuê mà chẳng ai nhờ, hỏi ra họ bảo lội xuống ruộng, chẳng may con đỉa nó cắn, nó làm lây bệnh. Hay có chủ nhà phải đập đi chiếc cốc mà một phụ nữ nhiễm “H” vừa sử dụng… Đến nay, nhờ công tác tuyên truyền, tiến bộ, sự kỳ thị đã giảm hẳn.
Một câu chuyện cảm động mà các chị em vẫn kể cho nhau, là cháu T. con gái của chị Mỵ học rất giỏi, có năng khiếu hội họa nhưng luôn bị các bạn kỳ thị bởi chính em cũng nhiễm “H”. Biết là mẹ đã quá đau khổ, em cố chịu nỗi đau một mình. Nhưng rồi, có người nói đến tai chị Mỵ là T. bị bắt nạt. Chị hỏi con gái thì nó chối. Cuối cùng, T. vẽ một bức tranh có rất nhiều hoa hướng dương, hướng về phía mặt trời, đưa ra khoe với mẹ: “Con muốn mẹ sẽ vững tâm để làm chỗ dựa cho con và em. Mẹ hãy vui tươi như những đóa hoa này nhé, con cũng vậy”. Chị Mỵ ôm con thật chặt, hà hít lên tóc con. Chao ơi, con tôi lớn thật rồi.
Không chỉ thuốc thang, mà nhờ những lời động viên như thế đã giúp các chị em vui sống. Một số chị đã nuôi con học hết cấp III, đi làm công ty để đỡ đần mẹ. Đó là những tia sáng hy vọng cho những người mẹ kém may mắn ở xứ núi này. “Không thể khỏi được, nhưng chúng tôi có thể kéo dài cuộc sống bằng tinh thần lạc quan. Hằng tuần, chị em chúng tôi vẫn gặp gỡ, động viên nhau, tự lập vươn lên”, chị Mỵ chia sẻ.