Kinh tế địa phương và tín chỉ carbon

Nhiều địa phương của Việt Nam có tiềm năng rất lớn để khai thác tín chỉ carbon. Nếu được quan tâm đầy đủ, đây có thể là một lĩnh vực có đóng góp quan trọng vào kinh tế địa phương.

Rừng ngập mặn tại các tỉnh miền tây được du khách yêu thích. Ảnh: NAM ANH
Rừng ngập mặn tại các tỉnh miền tây được du khách yêu thích. Ảnh: NAM ANH

Theo lộ trình của Đề án Thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, từ tháng 6/2025, Việt Nam sẽ bắt đầu giai đoạn thí điểm thị trường carbon kéo dài đến hết năm 2028. Trong giai đoạn này, tín chỉ carbon sẽ đóng vai trò là loại hàng hóa chủ đạo, được giao dịch trên nền tảng sàn giao dịch do nhà nước quản lý.

Khai thác lợi thế hiệu quả

Về bản chất, tín chỉ carbon là tài sản đại diện cho quyền phát thải một tấn CO₂ hoặc khí nhà kính tương đương. Trên thị trường quốc tế, tín chỉ carbon theo Điều 6.2 của Thỏa thuận Paris có giá trị cao nhất, trong khi các tín chỉ tự nguyện dao động từ 0,25 đến 30 USD/tín chỉ, tùy tiêu chuẩn và lợi ích môi trường.

Việt Nam được các chuyên gia, đối tác quốc tế đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng lớn về giảm phát thải khí nhà kính, tạo tín chỉ carbon. Đến nay, Việt Nam đã có hơn 300 chương trình, dự án đăng ký thực hiện theo tiêu chuẩn tín chỉ carbon, với khoảng 150 chương trình, dự án được cấp hơn 40 triệu tín chỉ carbon và thực tế đã có trao đổi trên thị trường carbon thế giới.

Trong thời gian gần đây, Việt Nam có thêm nhiều dự án năng lượng tái tạo theo tiêu chuẩn tín chỉ carbon. Trong lĩnh vực lâm nghiệp, Việt Nam đã trao đổi 10,3 triệu tấn CO₂ là kết quả giảm phát thải từ rừng khu vực Bắc Trung Bộ. Hay như Đề án 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng đang có nhiều triển vọng.

Ở góc độ địa phương, Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển đáng kể trong lĩnh vực mua bán tín chỉ carbon. Hiện có 23 địa phương có sẵn dịch vụ lưu trữ carbon và sáu địa phương đã được cấp phép mua bán tín chỉ carbon, bao gồm: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Quảng Bình và Quảng Trị.

Nhiều địa phương có thế mạnh về rừng cũng đã và đang có những bước chuẩn bị kỹ càng để tham gia thị trường tín chỉ carbon. Chẳng hạn, Yên Bái có 433.600 ha rừng, trong đó rừng tự nhiên chiếm hơn 245.580 ha, rừng trồng hơn 188.000 ha và đã cơ bản hình thành các vùng rừng trồng chuyên canh phục vụ chế biến trong và ngoài tỉnh.

Theo tính toán, nghiên cứu của các nhà khoa học, nếu rừng trồng có khả năng hấp thụ 15m³/ha/năm thì tổng lượng CO₂ được hấp thụ bởi rừng tự nhiên và rừng trồng của tỉnh Yên Bái là hơn 4,7 triệu tấn CO₂/năm. Giả sử toàn bộ lượng carbon được hấp thụ bởi rừng gỗ là rừng tự nhiên được bán ra nước ngoài với giá thấp nhất khoảng 5 USD/tấn CO₂, thì giá trị tín chỉ carbon hằng năm của Yên Bái có thể đạt gần 550 tỷ đồng.

Tỉnh Quảng Bình cũng có thế mạnh với hơn 590.000 ha rừng, trong đó có hơn 469.000 ha là rừng tự nhiên, tỷ lệ che phủ rừng đạt 68,7%, chất lượng rừng tương đối tốt. Trong giai đoạn 2023-2025, tỉnh đã nhận được 235 tỷ đồng từ bán tín chỉ carbon, qua đó mang lại thu nhập cho gần 11.000 chủ rừng, góp phần quản lý và bảo vệ rừng bền vững.

Cà Mau cũng là địa phương nổi bật với diện tích rừng ngập mặn lớn. Ước tính, mỗi ha rừng có thể khai thác hàng trăm tấn carbon với giá 5 USD/tín chỉ. Đối với các tỉnh khác như Hà Tĩnh, Nghệ An và một số tỉnh Bắc Trung Bộ, cơ hội này cũng là đòn bẩy quan trọng để thúc đẩy phát triển bền vững, hỗ trợ giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường.

Theo các nhà phân tích, rừng Việt Nam có thể tạo ra khoảng 50-70 triệu tấn tín chỉ carbon rừng dôi dư, mang lại nguồn thu hàng nghìn tỷ đồng nếu xuất khẩu thành công. Trước đó, trong năm 2023, ngành lâm nghiệp Việt Nam đã bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng (tương đương 10,3 triệu tấn CO₂) thông qua Ngân hàng Thế giới (WB). Với đơn giá 5 USD/tấn CO₂ hấp thụ, tổng giá trị hợp đồng lên tới 51,5 triệu USD (khoảng 1.250 tỷ đồng).

Sớm hoàn thiện hành lang pháp lý

Đánh giá tiềm năng khai thác giá trị kinh tế từ việc mua bán tín chỉ carbon cho các địa phương, PGS, TS Đỗ Anh Tài, Phó Viện trưởng Kinh tế Phát triển cho rằng, từ trước đến nay, địa phương nào cũng chỉ quan tâm tới phát triển những lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp hay dịch vụ. Nhưng không phải địa phương nào cũng có lợi thế trong những lĩnh vực này.

“Những địa phương có thế mạnh về rừng hay nằm ven biển có thể nghĩ ngay đến việc xây dựng chiến lược khai thác tiềm năng từ mua bán tín chỉ carbon. Nếu làm tốt, nguồn lợi kinh tế mang lại có thể vượt xa nhiều lĩnh vực khác. Mà giá trị này là giá trị kép, không chỉ về kinh tế mà còn đóng góp tích cực về môi trường”, PGS, TS Đỗ Anh Tài nhận định.

Ông Tài cho rằng, trong bối cảnh nhiều địa phương đang thực hiện tái cơ cấu, việc phân cấp phân quyền cho địa phương cũng ngày càng triệt để thì việc lồng ghép chiến lược phát triển thị trường tín chỉ carbon vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là rất cần thiết.

Đồng quan điểm, TS Nguyễn Mạnh Hải, chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, thực tế các địa phương có rất nhiều tiềm năng, nhưng sự quan tâm và mức độ hiểu biết về lĩnh vực này còn rất sơ khai. Vì vậy, điều quan trọng nhất hiện nay là hoàn thiện hành lang pháp lý một cách đầy đủ và đồng bộ, từ trên xuống dưới.

“Khi có hệ thống pháp lý đầy đủ, các địa phương sẽ chủ động hơn trong việc tham gia vào lĩnh vực này, phát huy đúng tiềm năng và lợi thế của mình”.

Còn theo TS Lương Quang Huy, Trưởng phòng Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và Bảo vệ tầng ô-zôn, Cục Biến đổi Khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), có không ít khó khăn, thách thức về mặt kỹ thuật, pháp lý cũng như nhận thức. Nhiều địa phương vẫn đang hiểu rằng có bao nhiêu rừng thì có thể bán bấy nhiêu tín chỉ. Do đó, vấn đề quan trọng là tính bổ sung, cũng như cần có sự nỗ lực hơn nữa để tăng lượng hấp thụ khí, sau đó mới nghĩ đến việc bán tín chỉ.

Vì vậy, các chuyên gia đều cho rằng để thị trường tín chỉ carbon vận hành hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và địa phương trong việc hoàn thiện thể chế, chuẩn hóa dữ liệu phát thải và nâng cao năng lực cho doanh nghiệp.

Điều này không những giúp Việt Nam giảm phát thải theo mục tiêu Net Zero vào năm 2050, mà còn mở ra cơ hội tài chính mới, nâng cao sức cạnh tranh của các địa phương nói riêng và cả nước nói chung trong phát triển kinh tế xanh.

Dự báo nhu cầu tín chỉ carbon của thế giới sẽ tăng gần 100 lần vào năm 2050. Đây là cơ hội vô cùng lớn cho các địa phương khi có sự chuẩn bị và tham gia tích cực vào thị trường này.

back to top