Cùng suy ngẫm

Quản lý mã số vùng trong xuất khẩu nông sản

Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, đến ngày 21/5, Trung Quốc đã phê duyệt 829 mã số vùng trồng và 131 mã số cơ sở đóng gói sầu riêng đủ điều kiện xuất khẩu, trong tổng số 1.604 hồ sơ vùng trồng và 314 cơ sở đóng gói do Việt Nam gửi Tổng cục Hải quan Trung Quốc.
0:00 / 0:00
0:00
Tổng diện tích cây sầu riêng của tỉnh Đắk Lắk đã được Tổng cục Hải quan Trung Quốc phê duyệt và đang chờ phê duyệt cấp mã số vùng trồng để xuất khẩu sang Trung Quốc là 5.078ha. (Ảnh minh họa: Công Lý)
Tổng diện tích cây sầu riêng của tỉnh Đắk Lắk đã được Tổng cục Hải quan Trung Quốc phê duyệt và đang chờ phê duyệt cấp mã số vùng trồng để xuất khẩu sang Trung Quốc là 5.078ha. (Ảnh minh họa: Công Lý)

Đây là tín hiệu tích cực đối với ngành hàng sầu riêng Việt Nam, nhất là trong bối cảnh trước đó, phía Trung Quốc liên tục thu hồi hàng loạt mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói, khiến hoạt động xuất khẩu gặp nhiều trở ngại. Liên quan đến vấn đề này, Hiệp hội Sầu riêng tỉnh Đắk Lắk đã có văn bản kiến nghị gửi Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường, phản ánh bất cập và đề nghị có giải pháp tháo gỡ khó khăn cho ngành hàng. Đây chỉ là một trong những vụ việc điển hình.

Mã số vùng trồng được xem là giấy thông hành để nông sản Việt Nam có thể “xuất ngoại”. Mặc dù có ý nghĩa rất quan trọng, nhưng thời gian qua việc cấp, quản lý và duy trì mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói ở nước ta còn bộc lộ nhiều lỗ hổng.

Một số địa phương, doanh nghiệp, vùng trồng chỉ quan tâm và coi trọng việc đăng ký, cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói ban đầu mà không chú trọng duy trì các điều kiện, yêu cầu của các nước nhập khẩu. Nguyên nhân chính khiến mã số vùng trồng bị thu hồi chủ yếu là do không đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng kỹ thuật của phía đối tác.

Đáng chú ý, ở một số nơi còn xảy ra tình trạng giả mạo, mua bán mã số vùng trồng cũng như cơ sở đóng gói, gây ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín và chất lượng nông sản của Việt Nam. Trên thực tế, nhiều lô hàng phải “quay đầu” vì không đáp ứng được yêu cầu chất lượng của nước bạn. Hiện nay, việc giám sát, lấy mẫu phân tích dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tại vùng trồng, cơ sở đóng gói của địa phương còn nhiều hạn chế, trong khi chế tài xử phạt các trường hợp vi phạm chưa đủ sức răn đe.

Trước thực trạng nêu trên, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần khẩn trương rà soát, kiểm tra quá trình triển khai cấp và quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói xuất khẩu nông sản tại các địa phương. Đánh giá đúng thực trạng quản lý và sử dụng các mã số vùng trồng đã cấp trên phạm vi toàn quốc, đồng thời đề ra giải pháp xử lý hiệu quả, phù hợp.

Cần tăng cường chế tài xử phạt đối với các trường hợp vi phạm. Đối với vùng trồng, nếu để xảy ra vi phạm hoặc có nguy cơ vi phạm cao, cần khoanh vùng báo động đỏ để quản lý chặt chẽ hơn. Đối với các địa phương, nên phân công rõ ràng cán bộ chuyên trách, cơ quan đầu mối trong công tác quản lý, giám sát vùng trồng và cơ sở đóng gói. Chủ động xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát chặt chẽ các đơn vị đã được cấp mã số. Về phía doanh nghiệp, cần chủ động bảo vệ mã số của mình, phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý và kịp thời thông báo khi phát hiện các vi phạm liên quan đến việc sử dụng mã số.

Giữa các vùng trồng và cơ sở đóng gói cần tăng cường liên kết, kiểm soát hàng hóa phục vụ xuất khẩu chặt chẽ hơn nữa, nhằm ngăn chặn việc các đối tượng xấu giả mạo mã số để trục lợi, cũng như hạn chế các hành vi vi phạm liên quan đến sử dụng mã số vùng trồng.