Đồng thời có nhiệm vụ trao trả nhân viên quân sự và thường dân của các bên bị bắt giữ. Đợt trao trả đầu tiên ở sân bay Lộc Ninh, Bình Phước (nay là tỉnh Đồng Nai), được thực hiện vào chiều 12/2/1973.
“Món quà cả nước tặng các đồng chí”
“Tổ trao trả nhận nhiệm vụ: Bất kỳ trường hợp nào cũng không được hoãn việc trao trả”, Đại tá Đinh Quốc Kỳ, thành viên Ban bảo vệ, Phòng Chính trị, Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam kể lại. Ông chỉ vào tấm ảnh các thành viên trong Ban bảo vệ: “Trưởng ban của chúng tôi là đồng chí Nguyễn Văn Khả, còn được gọi là anh Vũ Nam Bình, cũng là Phó Trưởng ban phụ trách tổ trao trả tù binh. Anh Bình quê ở Hà Tây, vào chiến trường từ năm 1964, liên tục công tác và chiến đấu tại những vùng trọng điểm khó khăn và ác liệt. Theo phong tục Nam Bộ, mọi người gọi anh là anh Năm Bình”.
Theo thỏa thuận của bốn trưởng phái đoàn trong Ban liên hợp quân sự bốn bên, 8 giờ sáng ngày 12/2/1973, cuộc trao trả đầu tiên được tiến hành. Hơn 100 tù binh Mỹ ở sân bay Gia Lâm, 27 tù binh Mỹ ở sân bay Lộc Ninh và đổi lại, hơn 900 cán bộ, đồng bào yêu nước được trả tại sân bay Lộc Ninh và ở một địa điểm tại Quảng Trị.
Thế nhưng sự cố đã xảy ra ngay trong đợt trao trả đầu tiên tại Lộc Ninh. Trong lúc này, các bên đều nôn nóng muốn việc trao trả đợt đầu diễn ra suôn sẻ để mở đường cho những đợt sau. Từ Hà Nội, toán tù binh phi công Mỹ đầu tiên đã sẵn sàng chờ được trao trả. Nhưng mãi vẫn không thấy chiếc máy bay C.130 từ sân bay Tam Hiệp, Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai) bay đến theo kế hoạch để trao trả người của ta.
Cuối cùng, đồng chí Tư Chi (tên thường gọi của Thượng tướng Trần Văn Trà) - Trưởng phái đoàn quân sự của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam, cử một đoàn sĩ quan đến thẳng trại giam Tam Hiệp ở Biên Hòa, trực tiếp xem xét tại chỗ để căn cứ vào thực tiễn mà xử lý. Yêu cầu số một là phải làm cho cuộc trao trả được tiến hành theo đúng tiến trình mà các trưởng đoàn đã thỏa thuận.
“Anh Bình được cử làm trưởng đoàn đi Tam Hiệp. Mấy người trong Ban bảo vệ chúng tôi được chọn đi cùng hỗ trợ. Cùng đi còn có một số phóng viên, báo chí, quay phim, chụp ảnh. Đoàn mang theo một ít thuốc lá Thăng Long, Điện Biên và một ít gói chè miền bắc để có dịp thuận lợi thì tặng anh em ta ở trại giam”, ông Kỳ nhớ lại. Hóa ra, cán bộ, đồng bào bị giam giữ trong các trại giam Phú Quốc, Biên Hòa… đã lâu, họ vốn là những chiến sĩ kiên cường, do thường xuyên bị bọn cai tù khủng bố tàn bạo, nên lúc nào cũng phải cảnh giác. Sau khi được tập kết về sân bay ở Biên Hòa, anh em chưa tin là mình được trao trả, mà vẫn còn nghi ngờ chính quyền Sài Gòn đưa đi thủ tiêu hoặc giam giữ ở nơi bí mật nào khác. Anh em kiên quyết không chịu lên máy bay đi tiếp.
Khi tổ phụ trách trao trả tới Tam Hiệp, gặp gỡ 12 đồng chí đại diện chiến sĩ, đồng bào yêu nước bị tù đày đang giam giữ tại đây. Tìm hiểu kỹ thêm thì tổ trao trả được biết anh em tù binh ở nhà lao không được phổ biến nội dung Nghị định thư về trao trả tù binh của Hiệp định Paris cho những người của ta bị địch giam giữ ở Côn Đảo, Phú Quốc hay Biên Hòa, được trao trả ở Lộc Ninh, Thiện Ngôn hay Quảng Trị, được trao trả trong đợt đầu hay đợt cuối cùng theo Hiệp định Paris. Sau khi giải thích, làm rõ cho anh em, lấy ra thuốc lá Thăng Long, Điện Biên và chè Ba Đình, anh Năm Bình nói: “Đây là món quà của miền bắc, của cả nước tặng các đồng chí”.
Lúc đó, cuộc gặp gỡ với đại diện 12 đồng chí cán bộ, đồng bào yêu nước mới kết thúc. 14 giờ ngày 12/2/1973, mọi người trong hai phái đoàn của ta lên máy bay C.130 với các chiến sĩ cách mạng được trao trả chuyến đầu tiên, bay xuống sân bay Lộc Ninh.

Tới đợt trao trả cuối cùng
Sân bay Lộc Ninh giữa vùng giải phóng miền nam đã trải qua những ngày sôi nổi diễn ra các cuộc trao trả của các bên Mỹ, Việt Nam cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam. Ba bên đã đồng thời trao trả tù binh trên đường băng trong thời tiết nắng to, mặt trời chiếu sáng như thiêu như đốt. Thỉnh thoảng những chiếc máy bay C.130 ầm ĩ lao xuống đường băng, cuốn theo những đám bụi mù.
Mỗi ngày có từ sáu đến tám chuyến máy bay vận tải cỡ lớn đến sân bay, đều được Ban liên hợp quân sự theo dõi, giám sát. Trong ngày 12/2/1973, có 27 nhân viên quân sự và dân sự Mỹ đã được trả tự do. Ba Ker, một phi công Mỹ trước kia lái máy bay thám thính, nay mặc bộ quần áo bà ba do ta cung cấp, nét mặt tươi cười nói: “Xin cảm ơn tất cả về tấm lòng rộng lượng”.
Đặc biệt có bốn quân nhân Mỹ, năm trước bị Quân Giải phóng bắt sống tại sân bay Lộc Ninh, đi đi lại lại bên đường băng rồi nói: “Trái đất tròn. Chúng tôi đã bị bắt ở đây, và bây giờ được trao trả cũng chính nơi đây”. Tất cả 27 người Mỹ, nhân viên quân sự và dân sự, đều tỏ ra rất xúc động, bộc lộ lòng biết ơn đối với Quân Giải phóng và tỏ rõ niềm vui được trở về, thoát khỏi một cuộc chiến tranh chẳng được ai hoan nghênh.
Ngày 10/3/1965, sân bay quân sự Lộc Ninh được Mỹ - ngụy cho xây dựng trên khu đồi cao, bằng phẳng nằm ngay khu vực trung tâm thị trấn Lộc Ninh. Sau này, do thời gian và nhiều yếu tố khác sân bay Lộc Ninh không còn nguyên vẹn như xưa. Sân bay Lộc Ninh là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc chiến tranh giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Tại đây, diễn ra trận quyết chiến chiến lược giải phóng huyện Lộc Ninh (cũ). Với những giá trị to lớn đó, ngày 12/2/1986, sân bay Lộc Ninh đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Trong cuốn Lộc Ninh - lịch sử và truyền thống (1930 - 2000) có ghi: Tại Lộc Ninh, từ ngày 12/2/1973 đến ngày 28/3/1973, đã diễn ra bốn đợt trao trả tù binh tại sân bay này và cùng với năm địa điểm khác trên cả nước, các tháng tiếp sau đó vẫn tiếp tục trao trả tù binh. Ngày 7/3/1974, cuộc trao trả cuối cùng diễn ra. Thực hiện nhiệm vụ trao trả ở Lộc Ninh, nhờ đó mà hàng chục nghìn chiến sĩ và đồng bào yêu nước bị địch giam giữ, trong đó có những người cốt cán như bà luật sư Ngô Bá Thành, nhà hoạt động sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm, chiến sĩ biệt động Sài Gòn Võ Thị Thắng - người nữ sinh đã nổi tiếng khắp thế giới với bức ảnh “Nụ cười chiến thắng” do một nhà báo Nhật Bản chụp tại chính phiên tòa kết án bà.
Năm 1968, tại phiên tòa thu hút sự chú ý của công luận, bà Thắng bị địch kết án 20 năm tù khổ sai nhưng chúng không thể thực hiện được bản án vô nghĩa này, bởi chỉ sáu năm sau bà được trả tự do trong cuộc trao đổi tù binh sau Hiệp định Paris. Võ Thị Thắng là người nữ sinh đã đấu tranh kiên cường vì độc lập, tự do của đất nước. Năm đó, với nụ cười lạc quan và thản nhiên, bà dõng dạc tuyên bố trước tòa án của kẻ thù: “Chế độ này liệu còn tồn tại được bao lâu nữa mà đòi giam tôi 20 năm?”. Nụ cười ấy đã được ghi hình lại và lan truyền rộng rãi tới cả dư luận nước ngoài, tới nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Chưa đầy sáu năm sau ngày bị Tòa án Sài Gòn tuyên án, bà đã trở lại để cùng với đồng bào, đồng chí tiếp tục đấu tranh cho Ngày Giải phóng miền nam và thống nhất đất nước.
Ngày 7/3/1974, đợt trao trả cuối cùng diễn ra ở sân bay Lộc Ninh. Trong số những người tù yêu nước được trả tự do đó có bà Võ Thị Thắng. Mặc dù phía Mỹ - Việt Nam cộng hòa vẫn gây ra không ít khó khăn và trở ngại cho cuộc trao trả này, nhưng cuối cùng 25 nhân viên dân sự, đồng bào yêu nước đã được trở về theo quy định và điều khoản trao trả tù binh của Hiệp định Paris. Bà Võ Thị Thắng (1945 - 2014) sau này giữ các chức vụ Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, X, XI; Đại biểu Quốc hội khóa IX, X, XI; Tổng Cục trưởng Du lịch, Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam - Cuba, Chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam.
Từ cuộc trao trả tù binh đầu tiên ở sân bay Lộc Ninh đã diễn ra đầy khó khăn, nhưng cuối cùng đã kết thúc thắng lợi như chính hình ảnh “Nụ cười chiến thắng” của bà Võ Thị Thắng.