50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

Nhớ mãi những ngày tháng ấy

Tháng 4, thị trấn huyện lỵ Bảo Thắng (Lào Cai) rực rỡ cờ đỏ sao vàng tung bay hướng về kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước 30/4/1975. Nửa thế kỷ trôi qua, trong ký ức những người lính từ vùng đất ven sông màu mỡ phù sa này vẫn tươi mới như ngày nào hành quân không mỏi, chiến đấu kiên cường để cùng dân tộc làm nên Đại thắng, mùa xuân, thống nhất non sông.
0:00 / 0:00
0:00
Cựu chiến binh Phạm Đăng Lịch, ở thôn An Thành, thị trấn Lu (Bảo Thắng, Lào Cai).
Cựu chiến binh Phạm Đăng Lịch, ở thôn An Thành, thị trấn Lu (Bảo Thắng, Lào Cai).

Góp sức cho độc lập - tự do

Trong căn nhà xây khang trang hướng ra đường lớn ở thôn Phú Xuân, cạnh con suối Bo nước trong xanh mát, cựu chiến binh Phạm Minh Cộng cho tôi xem những kỷ vật gắn bó với người lính pháo binh năm xưa ở chiến trường Quảng Trị, Huế. Mỗi kỷ vật đơn sơ như chiếc nẹp sắt rút quai dép cao su hay chiếc cà mèn nhôm tráng lớp sơn mầu cỏ úa đều gợi lại biết bao kỷ niệm chiến trường ác liệt năm nào, với những cái tên Rú Cuồi, Gio Linh, Cửa Việt.

Tháng 12/1971, từ quê hương Phú Xuân, Gia Phú, ông Cộng lên đường nhập ngũ. Sau thời gian huấn luyện chuyên sâu về bảo dưỡng, sửa chữa quân cụ, chàng tân binh được phiên chế vào đơn vị pháo binh, thuộc E16, Quân khu 4. Không chiến đấu giáp mặt kẻ thù, nhưng chiến sĩ Phạm Minh Cộng đã trực tiếp đưa 4 khẩu pháo lớn D-54, chỉ xếp sau “vua chiến trường” là pháo 130 ly từ Hạ Hòa (Phú Thọ) vào điểm tập kết Rú Cuồi, để bàn giao cho các đơn vị chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị năm 1972. Đường sá bị bom cày xới tơi tả, máy bay địch gầm rít trên đầu suốt ngày đêm, cứ 1 xe kéo 1 pháo D-54, chiến sĩ Cộng cùng người lính lái xe “đêm đi ngày nghỉ”, liên tục hàng tháng trời để đưa được 4 khẩu pháo lớn vào chiến trường an toàn, kịp thời gian cấp trên ấn định. Chính những khẩu trọng pháo ấy đã trút bão lửa lên đầu kẻ thù góp phần quan trọng giành chiến thắng Gio Linh, Thành Cổ, Cửa Việt trong mùa hè đỏ lửa 1972, tạo thế đứng cho quân Giải phóng tiến hành Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước. “Gần nửa thế kỷ như 1 nửa đời người đã trôi qua, vậy mà nhớ lại những ngày tháng hào hùng ấy như vừa mới hôm qua”, ông Cộng xúc động dâng trào.

Xuôi quốc lộ 4E, qua cây cầu bê-tông vắt ngang dòng sông Hồng mùa này êm ả đến vùng đất bãi An Thành, tôi tìm gặp cựu chiến binh Phạm Đăng Lịch năm nay tròn 70 tuổi, người lính quân Giải phóng năm xưa thuộc C4, D3, E585, F386. Ngày ấy, ông cùng đồng đội hành quân thần tốc từ miền bắc vào đến Mường Xén (Con Cuông, Nghệ An) thì Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 1975 đã toàn thắng. Không kịp tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, ông cùng đơn vị quay trở ra Thanh Hóa làm nhiệm vụ huấn luyện và tham gia khôi phục Sân bay Sao Vàng.

“Dù không được trực tiếp tham gia Chiến dịch mùa Xuân 1975, nhưng với tôi đó là những năm tháng không thể nào quên, được góp sức cùng bao đồng đội cho độc lập - tự do của Tổ quốc, thu giang sơn về một mối”, người cựu binh già Phạm Đăng Lịch bộc bạch.

Ký ức về những ngày tháng gian khổ, chiến đấu ác liệt hiện ra rờ rỡ trong câu chuyện của cựu chiến binh Trần Mạnh Hà, trong căn nhà mới xây còn chưa quét sơn nép dưới rừng quế thơm sắp đến kỳ thu hoạch ở thôn Tiến Lập (xã Trì Quang, huyện Bảo Thắng). Tháng 2/1969, anh lính trẻ Mạnh Hà cùng với 21 thanh niên Trì Quang nhập ngũ, đứng trong đội hình Tiểu đoàn Hoàng Liên Sơn 2 vào nam chiến đấu. Sau thời gian huấn luyện, Hà cùng đồng đội hành quân ròng rã 3-4 tháng, vượt Trường Sơn tập kết tại Q16 - Tây Ninh. Từ đây, những người lính trẻ quê Lào Cai được bổ sung cho chiến trường Bình Dương và Long An đang rất gay go, ác liệt sau chiến dịch Mậu Thân 1968, vì địch phản kích dữ dội.

Do bị sốt rét nên Hà ở lại Q16, phiên vào đơn vị bộ đội địa phương trực tiếp chiến đấu tại Tây Ninh. Mười năm chiến đấu trong phân đội hỏa lực cối 82 và B40, Trung đội trưởng Trần Mạnh Hà đã đánh hàng trăm trận, bị hơn 30 vết thương khắp cơ thể. Ông vẫn nhớ như in trận đánh lính dù ngụy ở vườn cao su có cái tên Vên Vên, cạnh quốc lộ 22 Sài Gòn - Tây Ninh. Trận ấy, với 6 quả đạn B40 trên lưng và 1 quả đã lắp vào đầu súng phóng, ông phụ trách tổ hỏa lực vừa bắn kiềm chế địch cho đại đội xông lên vừa trực tiếp bắn chính xác, tiêu diệt gọn bộ phận thông tin PCR-25 của địch, áp đảo hoàn toàn quân dù ngụy.

Ông cũng không thể nào quên trận đánh vào chi khu Long Hoa - Tây Ninh trong đêm cuối cùng của Ngày chiến thắng 30/4, ông cùng chiến sĩ tên Hổ, người miền nam và đồng đội vừa đặt khẩu 12,7 ly lên bờ đất, áp sát căn cứ Long Hoa thì bị địch phát hiện. Chúng vãi đạn như mưa, người lính miền nam tên Hổ hy sinh trên tay ông khi chưa kịp khai hỏa khẩu 12 ly 7. Trút căm thù lên đầu giặc, ông Hà bắn trọn 2 thùng đạn, tiếng nổ chát chúa như pháo khiến quân địch trong căn cứ tưởng là xe tăng quân giải phóng đang tiến vào nghiền nát, chúng tháo chạy tán loạn, bộ đội ta xông lên làm chủ hoàn toàn căn cứ Long Hoa vào sáng 30/4/1975.

“Đánh xong căn cứ Long Hoa, chúng tôi được lệnh hành quân tập kết ra chợ dân sinh gần đó. Trời sáng rõ, đồng bào mang rất nhiều bánh trái, hoa quả, nước ngọt cho bộ đội quân Giải phóng. Ai cũng lộ rõ mừng vui, chào đón khiến tôi càng đau đớn, xót thương đồng đội”, ông Hà lặng đi. Đúng 11 giờ 30 phút trưa 30/4/1975, ngồi bệt trên nền bê-tông chợ Long Hoa - Tây Ninh, ông Hà cùng đồng đội đón nhận tin xe tăng quân ta húc đổ cánh cổng sắt, tiến vào cắm lá cờ chiến thắng trên nóc Dinh Độc Lập, Tổng thống ngụy Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện. “Thời khắc ấy đã đến, chúng tôi ôm nhau, mồ hôi, máu, nước mắt hòa vào nhau”, ông Hà bộc bạch, đôi mắt ngấn lệ.

“Chất lính” thời bình

Rời quân ngũ, những người lính trở về quê nhà, đối mặt với cuộc sống thường nhật cơm áo gạo tiền cho gia đình. Cũng chẳng khác thời chiến tranh, bao nhiêu khó khăn chồng chất, chỉ có “chất lính” khiến họ không cam chịu mà kiên trì vượt khó. “Chẳng có chiến thắng nào dễ dàng cả, chiến đấu với đói nghèo cũng cần dũng cảm, đầu óc tính toán làm ăn hiệu quả nhất”, cựu chiến binh Phạm Đăng Lịch bày tỏ.

Câu chuyện phát triển kinh tế tổng hợp của ông Lịch là minh chứng sống động. Vùng đất bãi An Thành, thị trấn Lu nơi ông lập nghiệp vốn màu mỡ nhưng vẫn nghèo vì chỉ cấy lúa, trồng ngô, chăn nuôi lợn gà nhỏ lẻ, đủ ăn đã là thỏa nguyện. Vùng đất này nằm ngay bờ sông Hồng, thường hay xảy ra lốc xoáy, mưa lớn, chỉ một trận lốc quét qua là trắng tay. Ông Lịch nghĩ cách trồng mía kéo mật, làm đường phên bán ra thị trường từ những năm 80-85 của thế kỷ trước thu khá tiền, tạo vốn làm ăn. Rồi ông lặn lội khắp vùng, xuống cả vùng Trái Hút (Văn Yên, Yên Bái) mua gom trâu, bò gầy yếu về làm chuồng trại chăm sóc, vỗ béo bán cho người cần làm sức kéo và lấy thực phẩm. Không việc gì là không làm, lăn lưng ra vật lộn với đất đai để thắng đói nghèo.

Cơ chế thị trường mở ra, ông nghĩ cách làm trang trại kinh tế tổng hợp, đa dạng hóa sản phẩm nông sản theo kiểu bỏ trứng vào nhiều giỏ để tăng nguồn thu, hạn chế rủi ro. Trang trại của ông có hơn 50 cây mít cho quả chất lượng cao, phía dưới tán cây nuôi gà thả đồi; vùng đất bãi màu thấp ven suối trồng ngô đậu, bí đỏ; ao sau nhà nuôi cá. Năm xưa đánh giặc, rừng che chở ông và đồng đội khỏi bom đạn Mỹ, nay ông trồng hơn 10 ha quế và mỡ phủ xanh đồi trọc, đem lại nguồn nước cho sản xuất, khai thác vỏ quế và gỗ bán lấy tiền nuôi con cái ăn học, trưởng thành.

Có lẽ, cái chất lính chiến nói ít làm nhiều, không quản khó khăn đã ngấm vào ông. Hôm tôi đến, ông dẫn đi thăm 25 ha cây gáo (loại cây gỗ mới ở Lào Cai) có đặc tính thân thẳng, lớn rất nhanh, cho sinh khối lớn, gỗ mịn trắng. Ông bảo đó là nguồn “vàng xanh” để dành cho con cháu và vùng đất bãi An Thành quê hương yêu quý.

Với cựu chiến binh Phạm Minh Cộng thì khác. Rời quân ngũ, ông trở về làm công nhân Nông trường Phú Xuân. Ông tận tâm lao động góp phần xây dựng nông trường phát triển, đời sống công nhân ngày càng khá lên. Về hưu nhưng “chất lính” không để ông nghỉ ngơi mà nghĩ cách làm giàu. Quê Hải Phòng, lại có kiến thức về cơ khí, sửa chữa quân cụ thời bộ đội, ông Cộng về chợ Sắt (Hải Phòng), chợ Giời (Hà Nội) tìm mua tôn cũ về gò thành dụng cụ dân sinh, tiến đến mua máy móc nông cụ, vật dụng cơ khí cung cấp cho người tiêu dùng địa phương và khu vực Gia Phú, Xuân Giao, Sơn Hải.

Cứ từng bước chậm mà chắc, ông đa dạng mặt hàng kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ, gây dựng được cửa hàng bán buôn và bán lẻ đồ cơ khí, thiết bị điện, máy nông cụ rất có uy tín. “Các cụ dạy, trăm người bán vạn người mua. Mình từng là người lính thì kinh doanh phải lấy cái tâm, sự trung thực làm đầu. Mỗi sản phẩm bán ra phải có chất lượng. Thêm nữa là tư vấn cho người mua tận tình, cặn kẽ về cách sử dụng và bảo quản để giữ lâu dùng bền. Đó mới thật sự là kinh doanh bền vững”, ông Cộng chia sẻ.

Chính vì lẽ đó mà cửa hàng của người cựu chiến binh Phạm Minh Cộng ở thị tứ Gia Phú luôn đông khách, đem lại cho gia đình ông khoảng 500 triệu đồng/năm.

Hằng năm, với vai trò Trưởng ban liên lạc Hội đồng ngũ, vào dịp 30/4, ông cùng đồng đội tụ họp ôn lại những năm tháng hào hùng vượt Trường Sơn cứu nước, quyên góp ủng hộ những đồng đội còn khó khăn, gia đình liệt sĩ ở địa phương.

Còn cựu chiến binh Trần Mạnh Hà thì tri ân đồng đội bằng cách lăn vào gánh vác công việc làng xã. Từ chiến trường trở về, ông tham gia làm Phó Chủ nhiệm HTX nông nghiệp Trì Quang, Xã đội phó, Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã. Đến năm 2012, ông nghỉ hưu và làm Bí thư Chi bộ thôn Tiến Lập cho đến nay. “Còn sức khỏe, mình tham gia gánh vác công việc chung, cũng là đáp lại sự tin cậy của lãnh đạo và tình cảm quý mến của bà con để cùng chung sức đồng lòng xây dựng nông thôn giàu đẹp”, ông Hà chia sẻ.