Tầm vóc trẻ, tầm nhìn quốc gia

Chiều cao trung bình, chỉ số béo phì, tỷ lệ suy dinh dưỡng - những con số tưởng như thuần túy y tế ấy đang trở thành bài toán phát triển của cả nền giáo dục, y tế và chiến lược nguồn nhân lực quốc gia.

Trẻ em ở nông thôn và vùng sâu, vùng xa miền núi là nhóm chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của suy dinh dưỡng và thiếu vi chất. (Nguồn UNICEF Việt Nam)
Trẻ em ở nông thôn và vùng sâu, vùng xa miền núi là nhóm chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của suy dinh dưỡng và thiếu vi chất. (Nguồn UNICEF Việt Nam)

Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, khi cạnh tranh không chỉ diễn ra ở trình độ học vấn mà cả về thể lực và sức bền, thì tầm vóc con người chính là một phần không thể tách rời của năng lực cạnh tranh dân tộc.

Sai lệch từ những thói quen thường nhật

Béo phì nhưng thiếu sức đề kháng. Thấp còi nhưng ăn không thiếu bữa. Trẻ em hôm nay đang phải đối mặt đồng thời ba gánh nặng dinh dưỡng: suy dinh dưỡng, thừa cân và thiếu vi chất - một nghịch lý y tế chưa từng có trong lịch sử phát triển nhân loại.

Theo PGS, TS Trần Thanh Dương, Viện trưởng Dinh dưỡng quốc gia (Bộ Y tế), tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi vẫn ở mức 18,2% trên toàn quốc - con số tuy đã giảm nhưng vẫn còn cao, đặc biệt ở vùng trung du, miền núi phía bắc (24,8%) và Tây Nguyên (25,9%). Cùng lúc đó, tỷ lệ thừa cân béo phì ở trẻ 5-19 tuổi đã tăng hơn gấp đôi trong một thập kỷ: từ 8,5% (2010) lên 19% (2020).

Nguyên nhân đến từ nhiều phía: thực phẩm chế biến sẵn, thói quen ăn uống lệch chuẩn, áp lực học tập khiến trẻ ít vận động, thời gian ngủ bị rút ngắn, sự thiếu vắng giáo dục dinh dưỡng trong nhà trường và cả… bữa ăn vội vã tại gia đình.

Nghiêm trọng hơn, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai, Chuyên gia Tư vấn và đào tạo tại Culture Move (Hà Lan) cảnh báo, việc tiêu thụ quá nhiều thực phẩm chế biến sẵn, nhiều đường và chất béo có thể gây tổn thương nghiêm trọng đến não bộ, làm suy giảm khả năng học tập với mức giảm khoảng 10% trí nhớ và 20% điểm số đồng thời gây ra các vấn đề về cảm xúc như căng thẳng, trầm cảm với mức tăng khoảng 51%. Theo đó, Tiến sĩ Mai nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng chế độ ăn uống cân đối, giàu chất xơ và dưỡng chất để hỗ trợ sự phát triển toàn diện của trẻ.

Tỷ lệ thừa cân, béo phì đang gia tăng ở tất cả các đối tượng, đặc biệt nghiêm trọng với nhóm trẻ 5-19 tuổi (từ 8,5% năm 2010 lên đến 19,0% vào năm 2020, đồng nghĩa tăng gấp hơn hai lần sau 10 năm). Tình trạng trên dẫn tới nguy cơ lan rộng bệnh không lây nhiễm liên quan đến dinh dưỡng”.

PGS, TS TRẦN THANH DƯƠNG

Viện trưởng Dinh dưỡng quốc gia, Bộ Y tế

Bữa ăn học đường: Vấn đề không chỉ nằm ở nhà bếp

Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng 2021-2030 xác định rõ các mục tiêu cụ thể, trong đó nhấn mạnh việc tổ chức bữa ăn học đường đạt chuẩn tại 90% trường thành thị và 80% trường nông thôn vào năm 2030. Đây không chỉ là mục tiêu kỹ thuật mà là chính sách xã hội mang tính đột phá.

Thành phố Hồ Chí Minh - một trong những địa phương đi đầu cả nước về triển khai Chiến lược nói trên - đã đưa ra kế hoạch tăng chiều cao trung bình thanh niên 18 tuổi thêm 2-2,5 cm đối với nam và 1,5-2 cm với nữ vào năm 2030. BS Nguyễn Ngọc Thùy Dương, Phó Giám đốc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Thành phố Hồ Chí Minh (HCDC) phân tích, để hiện thực hóa mục tiêu này, thành phố xác định rõ tầm quan trọng của việc đầu tư vào dinh dưỡng học đường: tư vấn sức khỏe, hướng dẫn bà mẹ nuôi con nhỏ, tổ chức bữa ăn hợp lý, bổ sung vi chất và theo dõi sự phát triển của trẻ định kỳ.

Song dù có quyết tâm chính sách, khoảng trống vẫn nằm ở khâu thực thi. PGS, TS Nguyễn Thanh Đề, Vụ trưởng Giáo dục mầm non (Bộ Giáo dục và Đào tạo), hệ thống pháp lý điều chỉnh dinh dưỡng học đường ở Việt Nam còn thiếu đồng bộ, thiếu tiêu chuẩn cụ thể, thiếu cơ chế giám sát - trong khi đây là mấu chốt để bảo đảm sự phát triển thể lực học sinh một cách toàn diện.

Chìa khóa của nhiều quốc gia thành công trong cải thiện tầm vóc đều bắt đầu từ… chiếc khay ăn học đường. Không phải khẩu phần cao cấp, mà là khẩu phần cân đối. Không cần chi phí lớn, chỉ cần chuẩn khoa học.

Việc Bộ Y tế sớm ban hành các tiêu chuẩn dinh dưỡng cụ thể sẽ là cơ sở quan trọng để các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở giáo dục thực hiện quy định về dinh dưỡng học đường một cách hiệu quả. Việc tham mưu, xây dựng Luật Phòng bệnh đang triển khai, trong đó có những quy định rõ ràng về dinh dưỡng học đường, sẽ tạo ra khung pháp lý vững chắc, bảo đảm rằng tất cả học sinh đều có cơ hội tiếp cận các bữa ăn an toàn, đầy đủ dinh dưỡng, hỗ trợ sự phát triển toàn diện của trẻ”.

PGS, TS NGUYỄN THANH ĐỀ

Vụ trưởng Giáo dục mầm non (Bộ Giáo dục và Đào tạo)

Chính sách đột phá cho tương lai bền vững

Tầm vóc con người không phải chỉ là bài toán của ngành y tế. Đó là chỉ dấu của chất lượng nguồn nhân lực, là điều kiện để hội nhập quốc tế, là sự chuẩn bị cho một thế hệ có thể đứng ngang tầm với bạn bè năm châu. Giáo sư Lê Thị Hợp, Chủ tịch Hội Nữ trí thức Việt Nam, Nguyên Viện trưởng Dinh dưỡng (Bộ Y tế), Nguyên Chủ tịch Hiệp hội dinh dưỡng Việt Nam từng phân tích, trẻ em trong giai đoạn tiền dậy thì có thể cao thêm 8-12cm mỗi năm nếu được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng và có môi trường vận động hợp lý. Ngược lại, chỉ một giai đoạn thiếu hụt hoặc sai lệch trong khẩu phần ăn cũng có thể để lại hậu quả kéo dài suốt cuộc đời. Vì vậy, đầu tư vào dinh dưỡng ở lứa tuổi học đường là một chính sách đột phá để nâng cao tầm vóc cả thể lực và trí lực của trẻ đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của quốc gia trong tương lai.

Nhìn rộng hơn, muốn đạt được mục tiêu đặt ra trong Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng đòi hỏi những giải pháp can thiệp mang tính toàn diện, liên tục, liên ngành, trong đó bao gồm sự hoàn thiện về cơ chế, chính sách về dinh dưỡng, để thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện; tăng cường phối hợp liên ngành và vận động xã hội; tăng cường nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế, ứng dụng công nghệ thông tin; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công tác truyền thông giáo dục dinh dưỡng. PGS, TS Trần Thanh Dương cho rằng, cần cải thiện tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em và đặc biệt là tình trạng thừa cân béo phì ở trẻ lứa tuổi học đường vô cùng quan trọng, sẽ góp phần cải thiện tầm vóc của thế hệ trẻ người Việt và giảm mắc các bệnh mạn tính không lây nhiễm ở người trưởng thành.

Thiết nghĩ, các cơ quan, ban, ngành cần vào cuộc mạnh mẽ hơn để hoàn thiện các cơ chế, chính sách về dinh dưỡng toàn diện, một hệ sinh thái bữa ăn học đường khoa học, và một nỗ lực đồng bộ từ Nhà nước, nhà trường, gia đình và doanh nghiệp. Để không ai trong thế hệ trẻ Việt Nam bị bỏ lỡ "khung vàng phát triển".

Theo kết quả điều tra dinh dưỡng giai đoạn 2010 - 2020, đã chỉ ra sự khác biệt đáng kể giữa các vùng miền. Khu vực Đồng bằng sông Hồng ghi nhận tỷ lệ thừa cân, béo phì cao nhất (13,9%), tiếp đến là Đồng bằng sông Cửu Long (10,2%), trong khi vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền trung có tỷ lệ thấp nhất (4%). Sự chênh lệch này cho thấy sự khác biệt về lối sống, văn hóa ẩm thực và điều kiện kinh tế-xã hội giữa các vùng miền có ảnh hưởng lớn đến tình trạng dinh dưỡng của người dân”.

PGS, TS PHẠM THỊ DUNG

Trưởng Bộ môn Dinh dưỡng và An toàn thực phẩm, Trường đại học Y Dược Thái Bình

back to top